Đức mà không Đức
Trung tuần tháng 12 năm 2008, Liên
hoan phim Đức tại Hà Nội được tổ chức tại Viện Goethe. Khai mạc liên hoan là Edge of Heaven. Kết thúc liên hoan là Head-on. Mở đầu với Fatih Akin và kết
thúc bằng Fatih Akin, chương trình của LHP có lẽ đã phần nào khẳng định, cái
tên rất không Đức này lại đang chính là cái tên sáng giá nhất của điện ảnh Đức
đương đại.
Mắt sắc, lông mày rậm, khuôn mặt điển
trai, Fatih Akin dễ khiến người ta có cảm giác anh là một tay chơi hơn là tác
giả những bộ phim đầy suy tư về cuộc sống và về thân phận con người. Ở tuổi ba
mươi sáu, anh đã chinh phục hầu hết những gì một đạo diễn cần chinh phục ở Cựu
lục địa – Gấu vàng Berlin, Kịch bản xuất sắc ở Cannes, và Giải đặc biệt của Ban
giám khảo ở Venice. Nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên nhất ở Fatih Akin lại
không phải là tài năng của anh, mà là đề tài của những bộ phim đã xác lập tên
tuổi của anh trong nền điện ảnh châu Âu.
Trong thế giới hiện đại, hiếm quốc gia
nào duy trì được tính đơn nhất về chủng tộc và văn hóa trước những làn sóng di
cư nổi lên như vũ bão trên khắp các châu lục. Di dân và những vấn đề đi cùng nó
từ lâu đã trở thành thách thức cho mọi xã hội, tiên tiến cũng như đang phát
triển. Mặc dù vậy, rất hiếm đạo diễn chọn di cư làm đối tượng cho phim của
mình. Họ có thể làm một, hai bộ phim về đề tài này, có thể đả động đến nó trong
một vài kịch bản. Nhưng lấy di cư, dân di cư và giao thoa văn hóa làm cảm hứng
xuyên suốt cho sự nghiệp điện ảnh của mình thì chắc chắn là rất ít. Fatih Akin
là một trong số đó.
Sinh ra trong một gia đình gốc Thổ di
cư sang Đức từ những năm 60, Fatih Akin, hơn ai hết, hiểu rất rõ thế nào là
cuộc sống của một người nhập cư. Anh hiểu thế nào là khoảng cách giữa văn hóa
bản địa và văn hóa di dân, là xung đột giữa giá trị mới và giá trị cũ, là mâu
thuẫn giữa thế hệ trước vẫn nặng lòng cố quốc và thế hệ sau chỉ biết miền đất
mới. Cuộc sống của cộng đồng người Đức gốc Thổ và sự đấu tranh của họ để giải
quyết những vấn đề ấy, bởi thế cho nên, đã trở thành đề tài chủ đạo trong hầu
như mọi tác phẩm của anh.
Xem phim của Fatih, không khó để nhận
ra một điều: anh là người rất gắn bó với truyền thống. Anh tự hào về nguồn gốc của
mình, và thậm chí từng tuyên bố tiếp nhận giải thưởng của LHP Cannes thay mặt
cho điện ảnh Thổ Nhĩ Kỳ. Sinh ra và lớn lên ở Hamburg, thành danh cũng ở
Hamburg, làm phim cũng lấy bối cảnh là Hamburg, nhưng trong lòng anh hình như
chưa lúc nào nguôi nỗi khát khao tìm kiếm một cội nguồn đích thực, một bản lai
chân diện của những kẻ di cư.
Nỗi khát khao ấy, đã không ngừng thôi
thúc anh tìm về eo biển Bosphorus.
Đơn độc đương đầu
Năm 2004, Head-on, bộ phim thứ tư của Fatih Akin, càn quét mọi giải thưởng
của điện ảnh Đức trước khi giành nốt Gấu
vàng. Như cái tên của mình, Head-on là
sự đương đầu trong đơn độc của hai nhân vật chính, hai thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ
lớn lên trên đất Đức, với gia đình, với truyền thống, và với những mâu thuẫn
nội tại của mỗi người. Điểm độc đáo nhất của Head-on là câu chuyện của Cahit và Sibel diễn ra hoàn toàn trong
cộng đồng người Thổ, yếu tố Đức hầu như không xuất hiện trên màn ảnh. Mặc dù
vậy, người ta vẫn thấy được sự đụng độ dữ dội giữa hai nền văn hóa, mà bãi
chiến trường của cuộc đụng độ ấy chính là hai nhân vật chính (họ quen nhau trong
bệnh viện, sau khi cả hai vừa tự tử bất thành). Sibel đề nghị Cahit cưới mình,
hy vọng điều đó sẽ giải quyết được vấn đề của cô.
Nhưng, khác với Hỷ yến của Lý An với kịch bản tương tự và đề tài tương tự, màn kịch
cưới xin giữa họ, dưới tay Fatih Akin, không hề có hậu. Cuộc hôn nhân đáng lẽ
phải đem đến tự do cho Sibel lại mở đường cho cô rơi vào vòng xoáy của rượu, ma
túy, và hàng loạt cuộc tình một đêm; trong khi những bế tắc trước cuộc sống của
Cahit không vì sự hiện diện của người vợ mới cưới mà vơi bớt.
Dù ống kính của bộ phim chỉ xoáy vào
cái tiểu xã hội của cộng đồng người Thổ ở Đức, và hầu như không zoom out để cho ta thấy bức tranh toàn
cảnh, nhưng Fatih Akin, trên tấm phông nền rất hẹp này, vẫn khéo léo đặt ra câu
hỏi về bản sắc Đức - Thổ qua cách giao tiếp của nhân vật. Sự hoán chuyển liên
tục giữa ba ngôn ngữ Thổ, Đức, và Anh trong phim của Sibel và Cahit là chỉ dấu
rõ ràng nhất về sự “rối loạn văn hóa” của họ nói riêng, và cả một thế hệ người
Thổ ở Đức nói trung.
Trong khi nhân vật của Head-on rối bời với bản sắc văn hóa của
chính mình thì bộ phim, tự thân nó, lại là một bức tranh rực rỡ và đa chiều của
văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng một thủ pháp rất Brecht – sử dụng một dàn nhạc cổ
truyền diễn tấu trên bờ biển ở Istanbul làm dẫn đề cho từng chương, Fatih Akin
đã thổi vào Head-on một hơi thở nồng
nàn truyền thống, làm nổi bật chất sân khấu dân gian trên nền điện ảnh hiện đại.
Head-on, bên cạnh đó,
cũng không thiếu yếu tố hài hước – bất đồng văn hóa luôn là một cái nền tốt cho
sự hài hước. Song những tiếng cười dễ dãi một cách cố ý ấy lại càng nhấn mạnh hơn
bi kịch của những con người bị cầm tù trong thế giới của chính mình, khát khao
vượt thoát nhưng lại không hề có lối thoát. Không phải họ không sẵn lòng hòa
nhập vào thế giới ấy, mà thế giới ấy không cho họ quyền lựa chọn. Nhân vật Đức
duy nhất của phim đã nói: “Nếu không thể đổi thay thế giới, hãy thay đổi chính mình.”
Cả hai, rốt cục, đã chọn một giải pháp khác: thay đổi môi trường sống. Họ chia
tay, nhưng cùng đi về một hướng: trở lại Thổ Nhĩ Kỳ.
Quay về cố quận
Ba năm sau Head-on, Fatih Akin thực hiện Edge
of Heaven, kể về những cuộc đi về giữa hai xứ sở của những thân phận lưu
dân. Khác với Head-on, bối cảnh của Edge of Heaven trải dài trên cả hai miền
Đức, Thổ. Cùng với cái thoáng đãng của không gian địa lý này là một không gian
tâm lý sâu lắng hơn, dễ thở hơn, dù vẫn đầy ắp những ưu tư. Bộ phim kể về những
mối quan hệ chồng chéo giữa sáu con người, ba cặp cha con và mẹ con, Đức có,
Thổ có; mỗi người đều miệt mài rong ruổi trên hành trình “hòa giải” với người
kia và tìm kiếm sự thanh thản cho tâm hồn mình.
Câu chuyện ở Edge of Heaven là câu chuyện của trùng điệp nhiều tầng mâu thuẫn:
xung đột giữa hai thế hệ, va chạm giữa những hệ giá trị xã hội, sự lạc lối giữa
hai nền văn hóa. Nejat, một trí thức trẻ gốc Thổ (phải chăng đó chính là chân
dung tự họa của Fatih Akin?) đứng ở trung tâm, và là sợi dây nối kết những người
còn lại. Đó là Yeter, bà mẹ Thổ làm gái điếm ở Hamburg để kiếm tiền nuôi con gái. Đó là
Lotte, cô sinh viên Đức mà anh gặp ở Istanbul và vui niềm vui “tha hương ngộ cố
nhân” – bởi Istanbul khi ấy với anh vẫn là xứ lạ, còn Hamburg mới đích thực là
quê. Đó là Susanne, người mẹ Đức mất con mà niềm đau đớn khôn nguôi lại đã góp
phần kéo anh gần lại với cha mình. Trong mỗi cuộc gặp gỡ (và tiễn đưa!) mỗi
người trong số họ, Nejat lại khám phá ra một ý nghĩa sâu thẳm hơn về cuộc sống.
Yeter và cái chết của cô thôi thúc anh về lại Thổ Nhĩ Kỳ; trong khi Susanne và câu
chuyện của bà về Abraham và Isaac giục giã anh tìm về cố quận bên bờ Hắc Hải, đánh
thức trong anh tình phụ tử đã ngủ quên sau cái chết của Yeter…
Khác với Head-on trầm uất và bế tắc, Edge
of Heaven, mặc dù không thiếu nỗi đau và cái chết, dường như lại là mẫu mực
về sự cân bằng và hòa hợp mà Fatih Akin hướng đến. Có cảm giác bộ phim là một
bức tranh đối xứng hoàn hảo: một người cha nhớ con trai đi tìm sự an ủi nơi một
người mẹ xa con gái, một cô gái Thổ mất mẹ nép vào lòng một người mẹ Đức mất
con; một cỗ quan tài Thổ ở Đức quay lại Thổ, và một cỗ quan tài Đức từ Thổ đi
về Đức… Nếu như Head-on chưa có câu
trả lời cho những băn khoăn và mâu thuẫn trong lòng kẻ di cư, thì Edge of Heaven, ở một chừng mực nào đó,
đã tìm thấy câu trả lời từ những đền bồi và đắp đổi trong số phận của sáu con
người ấy. Và, cuối cùng, Nejat, người chứng kiến tất cả, cũng đã hiểu ra điều
mà Fatih Akin muốn tất cả chúng ta cùng hiểu: sự thanh thản của tâm hồn, sự hòa
hợp giữa hai thế hệ, cũng như sự giao thoa giữa hai nền văn hóa, chỉ có thể đạt
đến khi con người ta biết chấp nhận nhau, dung hòa nhau. Kết thúc phim, Nejat
đứng lặng bên bờ Hắc Hải, đợi Ali từ biển quay về. Tìm về cố quận, anh đã sẵn
sàng mở lòng đón nhận cha mình, đón nhận cả một miền đất, một quê hương, một
tâm hồn Thổ.
Bài đăng trên Sinh viên Việt Nam tuần từ 21-28/9