Flu is a scary thing. You just
cannot sleep with it. For the night is dark and full of terrors. Terrors run
out in streams, from your nose. And you can do nothing about it.
Và vì mất
ngủ nên tôi đành ngồi viết mấy dòng.
Một định nghĩa thông thường về
dịch thuật hẳn sẽ đại khái là “chuyển văn bản từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ
đích.” Người cẩn thận sẽ bổ sung “và giữ nguyên ý nghĩa của bản gốc.” Riêng tôi
thì muốn thêm “với số chữ ít nhất.”
Một điều đáng ngạc nhiên là không
nhiều người ý thức được tầm quan trọng của tiêu chí này. Hồi còn Facebook, đôi
khi tôi vẫn tạt vào một thread nào đó và góp ý rằng câu dịch có thể gọn hơn, và
demo tại chỗ một version ngắn hơn từ 10-30% bản cũ. Phản ứng của dịch giả lẫn độc
giả nói chung là lịch sự cảm ơn, nhưng qua cách trả lời tôi ít khi thấy họ thật
sự cảm nhận được sự khác biệt. This makes me scratch my head (a lot).
Trường hợp này, nếu có gì có thể
tạm so sánh với văn bản thì đó là vải hoặc giấy. Một tiêu chí quyết định chất
lượng của ga trải giường là mật độ sợi
(đo bằng tpi – thread per inch). Nói chung mật độ càng cao, ga càng mịn và bền
(có thể đọc thêm ở đây). Giấy in dùng ở văn phòng có định lượng từ 70-80 gsm (gram
per square meter). Giấy viết thư loại xịn từ 100-120 gsm (cao
hơn thì là bìa, là thiệp rồi). Văn cũng
vậy, nói chung càng cô đọng (higher density) thì càng hiệu quả. Không phải ngẫu nhiên mà một nguyên tắc quan trọng của cuốn
Elements of Style lừng danh là “Omit needless words.” Và
nguyên tắc này có thể áp dụng cho cả viết lẫn dịch.
Thật ra dịch ngắn và lược bỏ chữ
thừa là điều tôi đã nói không
chỉ một lần, nhưng vẫn cảm thấy cần nhắc lại bằng một entry
riêng.
Có điều trước khi nói về chuyện
nên tỉnh lược ra sao, tôi muốn nói về chuyện khi nào thì không nên tỉnh lược.
Trong chín mươi phần trăm trường hợp, tỉnh lược là giải pháp đúng. Còn lại thì
không. Ta không nên (và không thể) tỉnh lược khi:
(i) Viết câu dài, phức tạp là
phong cách của tác giả. Chẻ nhỏ một câu phức dài nửa trang của Rushdie thành
nhiều câu đơn chính là cách hành quyết ông hay nhất mà một kẻ ủng hộ lệnh Fatwa
có thể nghĩ ra.
(ii) Cách diễn đạt bất bình thường
thể hiện cá tính của nhân vật. Trẻ con chẳng hạn, có lối tư duy khác người lớn,
cách suy nghĩ, quan sát và kể chuyện cũng khác. Bởi vậy gò ép bản gốc thành những
câu văn chuẩn mực và gọn ghẽ sẽ là lựa chọn sai lầm.
(iii) Nhạc tính và sự nhịp
nhàng của bản gốc gắn liền với cấu trúc và độ dài của câu văn. Cái này thực ra
có thể ghép với (i) thành khi tác giả cố ý/có dụng tâm kỹ thuật/nghệ thuật khi
viết như vậy. Nhưng tôi muốn tách nó ra riêng.
Truyện kiếm hiệp hay có chi tiết
một cao thủ nhảy từ thuyền lên bờ nhưng không tới. Trong cơn nguy cấp y bèn mượn
lực từ một cây sào trúc/một chiếc lá sen nổi trên sông và nhẹ nhàng đáp xuống bờ
bên kia. Trong dịch đôi khi gặp những chữ như vậy – tưởng là bỏ đi được, nhưng
nếu bỏ đi thì… tủm.
Một ví dụ như vậy chính là chữ của trong “Những đứa con của nửa đêm.”
Vì sao thì các bạn có thể đọc ở đây (thật
ra lời giải thích của Rushdie cũng chỉ điểm tới là dừng, để người đọc tự nghĩ
thêm).
Trở lại với tỉnh lược. Có ba loại
tỉnh lược. Loại thứ nhất là chữ thừa. Đây chủ yếu là hệ quả của việc dịch word
by word.
“Một” và “những” – dấu vết
của việc máy móc dịch a/an hoặc danh từ số nhiều.
I saw a
man walking a dog on the street.
Cách dịch lỗi điển hình sẽ là:
Tôi thấy
một người đàn ông dắt một con chó đi dạo trên phố.
Cách dịch tốt hơn sẽ là:
Tôi thấy
một người đàn ông dắt chó đi dạo trên phố.
Rõ ràng “một con” ở đây là thừa,
vì theo lẽ tự nhiên chúng ta sẽ phán đoán rằng chỉ có một con chó, hơn nữa số
lượng chó (1) trong trường hợp này không có ý nghĩa gì quan trọng để buộc phải
dịch. Ta chỉ nên dịch khi số từ có ý nghĩa nhất định – ví dụ mọi khi ông ta dắt
hai con, hôm nay chỉ còn một con.
Nếu căn cứ theo ngữ cảnh mà giới
tính của nhân vật cũng không quan trọng thì thậm chí ta còn có một câu ngắn
hơn:
Tôi thấy
một người dắt chó đi dạo trên phố.
Sở hữu cách (của)
Madritsch
and Titsch drank their coffee quickly and excused themselves.
Nhiều người sẽ máy móc dịch chữ
their thành của họ. Đâu cần thiết, vì không lẽ họ lại uống cà phê của người
khác?
Madritsch
và Titsch mau chóng kết thúc ly cà phê và cáo lui.
Ngoài ra, việc có quá nhiều “của” cũng khiến mạch
văn lủng củng. Ta không bắt buộc phải dịch tất cả những his/her/their và nhất
là of thành của. Inhabitants of the earth không nhất thiết phải là cư dân của địa
cầu mà có thể là cư dân trên trái đất; students of Harvard không buộc phải là
sinh viên của trường Harvard, bỏ “của” đi cũng chẳng chết ai.
“Đã”
Một cách bản
năng, chúng ta phản ánh thì quá khứ thành chữ “đã.” Đôi khi chữ “đã” là không cần thiết. Bản thân ngữ cảnh nhiều khi đủ để ta hiểu ở đây có một chữ
“đã” ẩn. Thế chiến thứ hai đã kết
thúc năm 1945.
Trùng
ngôn
Khi hai vế có cùng chủ ngữ, biến
vế thứ nhất thành ngữ động từ sẽ làm câu văn gọn ghẽ hơn.
Dưới đây là một đoạn đầy đủ những lỗi trên:
“Những
người du kích cưỡi ngựa vào một làng, giữa ban ngày. Họ lôi một
viên trưởng làng và con trai ông ta ra khỏi nhà. Họ dùng que sắt quất
vào đầu hai người, cho đến khi ngã gục. Rồi họ giết chết dưới đất. Tôi
ngồi ở cửa sổ, tôi đã nhìn thấy hết. Trong số du kích, có anh trai tôi.
Khi anh vào nhà và muốn ôm hôn tôi – “Em gái!” tôi rú lên… Rồi tôi thành câm.
Suốt một tháng, tôi không nói một tiếng.
Anh tôi
chết trong chiến tranh… Nhưng nếu anh còn sống, không biết anh sẽ thế
nào? Và nếu anh trở về nhà… Tôi không biết… Tôi có nói lại được không?
Tôi bị
chấn thương tâm thần vì chiến tranh, mãi mãi…”
Cần gì “những
người”?
Chữ “họ” ở câu sau đã gián tiếp cho thấy có nhiều du kích. Và cần gì
“một”? Ngôi
làng này của chính người kể chuyện chứ đâu phải một ngôi làng bất kỳ? Một làng chẳng lẽ có hai trưởng làng mà lại cần “một viên”? Chữ “con trai” đi sau trưởng làng thì cần gì “ông ta”? “Đến
khi” là đủ, cần gì “cho” nữa? “Tôi nhìn thấy hết” là đủ, cần gì “đã” nữa? Hai
câu cùng chủ ngữ thì có thể bỏ
một chữ
“anh” đi.
Chỉ cần dụng tâm lưu ý, chữ thừa
tương đối dễ phát hiện và dễ sửa, vì từ khi xuất phát ta đã biết mình phải tìm
gì. Loại thứ hai khó phát hiện, khó sửa hơn: cấu trúc câu chưa tối ưu, và có thể
điều chỉnh lại để tạo điều kiện lược bỏ một số chữ.
Ví dụ câu này:
Cái tường
vừa có màu tím, vừa có màu vàng, sàn nhà màu xanh thì thật là thảm hại, chả ăn
nhập gì với nhau cả.
Đây là bản dịch nháp của một người
bạn, tôi tin rằng bản cuối sẽ chỉn chu hơn, but here’s my two cents:
(Cái)
tường vừa tím vừa vàng, sàn lại màu xanh, trông thật thảm hại, chả ăn nhập gì hết.
Hoặc như đoạn này:
“Don’t
you know me?” he asked, just like a man --a football star or a violinist—whose
sense of his own celebrity has been hurt by a stranger’s failure to
recognize him. “I’m Schindler.”
Thay vì
vụng về bám sát cấu trúc của bản gốc: sự
thất bại của một người lạ mặt trong việc nhận ra mình, ta chuyển phrase này
thành một mệnh đề, vừa gọn ghẽ, vừa xuôi tai:
“Cô không biết tôi ư?” ông hỏi, như một
ngôi sao bóng đá hoặc một nhạc công vĩ cầm, ý thức về sự nổi tiếng của bản thân
bị tổn thương vì người ta không nhận ra mình. “Tôi là Schindler.”
Loại thứ ba, cũng không đơn giản,
ấy là khi có thể thay thế một cụm từ bằng một từ khác hàm súc hơn. Phương án này
thường là Hán Việt. Lonely and quiet có thể dịch cực gọn thành “cô tịch.” Có điều
vẫn cần cân nhắc màu sắc hàn lâm của nó – nếu đây là lời nói của một đứa trẻ
thì lại không nên, vì trẻ em khó lòng có vốn từ vựng già nua như thế.
Hay cái tên “Unbearable
lightness of being” có thể được Trịnh Y Thư dịch rất đắt thành “Đời nhẹ khôn
kham.” Muốn làm được như vậy thì người dịch phải có vốn từ vựng rất rộng, đồng
thời ít bị lệ thuộc vào từ điển, vốn thiên về giải nghĩa (làm dài ra) chứ ít
khi cô đọng.
Có hai cách để có vốn từ vựng tốt.
Cách thứ nhất, mưa dầm thấm lâu, là đọc sách. Cách này thiết tưởng ai cũng biết,
tôi không bàn nhiều. Cách thứ hai, tôi tạm gọi là cách “luyện thi,” là đọc từ
điển. Một cái thú của tôi là đọc từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, đọc trước khi
đi ngủ và khi ngồi toilet. Từ điển của Đào quân giống như một thứ sách điển
tích cô đọng, cơ hồ từ mục nào cũng hàm chứa một câu chuyện. Mỗi lần chỉ đọc
vài từ, giở ngẫu nhiên như bói Kiều, chán lại bỏ xuống, không cần miễn cưỡng. Hãy tin tôi, đọc từ điển của Đào quân sẽ khiến ta thường xuyên phải ồ à vì những khám phá mới mẻ mà nó mang lại.
Dài quá rồi, tôi lại tạm nghỉ ở
đây.