Monday, July 15, 2013

L'illusionniste

Thường thì hoạt hình làm ta vui. Đôi khi hoạt hình làm ta khóc. Và còn có cả những hoạt hình không làm ta khóc nhưng khiến ta thấy rất đỗi bùi ngùi, như “L'illusionniste”, một trong bốn phim hoạt hình Pháp sẽ ra mắt tại Megastar từ tháng 8/2013 này.

Trong khi hoạt hình Hollywood – dù là Disney, Dreamworks, thậm chí Pixar – đều ít nhiều dựa vào những công thức đã được tối ưu hóa để “thuốc” khán giả, nhất là khán giả nhí; thì hoạt hình Châu Âu luôn đem lại cho người xem những ngạc nhiên thú vị nhờ tính tự nhiên, nguyên bản, muôn màu muôn vẻ của mình.

“L'illusionniste” là một bộ phim như thế.

Ai đã quen với tông màu rực rỡ của thế giới hoạt hình 3D, chắc chắn sẽ bất ngờ khi bước vào thế giới của Sylvain Chomet. Những nét vẽ mỏng manh, thanh nhã và tinh tế. Những sắc màu dịu nhẹ, sâu lắng, và chất chứa một nỗi ưu tư. Giống “The Artist”, bộ phim đoạt giải Oscar và cũng được giới thiệu trong chùm phim Pháp lần này, “L'illusionniste” là câu chuyện về người nghệ sĩ hết thời. Cả hai là những bộ phim không lời, nơi ngôn ngữ nhường chỗ cho những khuôn hình với sức biểu cảm mãnh liệt. Nhưng khác với chàng diễn viên phim câm, nhà ảo thuật không tranh đấu để tìm lại vầng hào quang cũ, mà ngậm ngùi buông mình theo dòng chảy của thời đại, đồng thời cố gắng thích nghi với vai trò mới: người cha bất đắc dĩ của cô bé Alice.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà cô bé có tên là Alice. Alice này không đến từ xứ sở diệu kỳ, mà từ một quán trọ tồi tàn trên một hòn đảo nhỏ ở Scotland, nơi nhà ảo thuật tìm đến để tránh cơn bão Rock ‘n’ Roll đang hoành hành ở London và nhận chìm những nghệ sĩ giải trí thuộc thế hệ già như ông. Và Alice này tin vào những điều kỳ diệu. Tao ngộ với cô bé vừa là niềm hoan lạc, cũng là nỗi bi ai của người nghệ sĩ. Hoan lạc, vì cô tin, một niềm tin tuyệt đối, thơ ngây mà thuần khiết, vào phép màu của ông. Bi ai, vì niềm tin của người hâm mộ nhỏ tuổi ấy lại xuất hiện đúng vào lúc ông đang ở vực thẳm cùng quẫn và bế tắc của sự nghiệp. Một mặt, ông ý thức rõ hơn ai hết sự hết thời của mình. Mặt khác, ông dốc chút sức tàn và cả những đồng tiền bé mọn, như một con tằm già cỗi nhưng vẫn cặm cụi nhả tơ, hòng nuôi dưỡng niềm tin của cô rằng ông là người sở hữu phép màu thực thụ. Bi kịch của ông khiến người xem xót xa, thậm chí oán giận cô bé quá đỗi vô tâm đã đẩy ông vào một thế tiến thoái lưỡng nan trớ trêu mà đau xót.

Sở dĩ nhà ảo thuật già không nói ra sự thực cho người hâm mộ nhiệt thành này biết, một phần vì ông không đủ dũng khí phá tan ảo tưởng của cô bé; phần khác vì chính ông cũng đang vô thức bám víu vào niềm tin ấy để trốn tránh hiện thực, để níu kéo chút dư quang cuối cùng trong nghề nghiệp của mình. Và còn một lý do khác nữa, sâu xa hơn, bản năng hơn: sau bao nhiêu năm gió bụi phiêu bồng, con người cô độc này bỗng nhiên nếm trải cảm giác ngọt ngào của kẻ được làm cha. Dù mệt mỏi, dù kiệt quệ, ông vẫn không cưỡng nổi cám dỗ ấy, và vẫn đắm đuối chiều chuộng cô bé cho đến phút cuối cùng.

Nhân vật chính của chúng ta đã thất bại trong sự nghiệp cả đời mình – nhà ảo thuật; nhưng có lẽ đã thành công trong vai trò ngắn ngủi của người cha. Ông đã gắng gỏi chống đỡ cho những giấc mơ của cô bé khỏi sụp đổ dưới sức nặng của hiện thực. Và đến khi có một bờ vai khác trẻ trung hơn ghé vào, gánh lấy vai trò ấy, ông mới yên lòng dứt áo ra đi.

Nếu chỉ có như thế thì câu chuyện của “L'illusionniste” hẳn sẽ rất buồn bã và u ám. May mắn thay, Sylvain Chomet vẫn bảo trì được phong cách hài hước điển hình từng làm anh nổi danh với “The Triplets of Belleville”. Tiếng cười trong bộ phim có những lúc hơi chua chát, có những lúc khá ngọt ngào, và cũng có những lúc tỉnh rụi rất “tưng”, nhưng luôn ẩn chứa một ý vị sâu xa và u mặc. Những vai phụ, từ hai bà cháu khán giả khó tính, đến những bạn diễn/bạn trọ cùng nhà của hai thầy trò, và đặc biệt là chú thỏ cáu bẳn một cách dễ thương, đều là những nét điểm xuyết tài tình cho những khuôn hình thấm đượm một nỗi sầu nhân thế. Rất ngắn (75 phút), nhưng dư âm đọng lại thì rất dài và rất sâu – đấy là màn ảo thuật mà Chomet, trong bộ phim dài thứ hai của mình, đã gieo vào đáy lòng khán giả.

 Bài đã đăng trên Đẹp số tháng 8/2013.

Friday, July 12, 2013

The Artist

Tháng 5 năm 2011, The Artist ra mắt ở Cannes và đem về cho Jean Dujardin giải Nam chính xuất sắc nhất. Tháng 10 năm 2011, bộ phim bắt đầu công chiếu rộng rãi, và đến tháng 2 năm 2012 ẵm trọn ba giải Oscar cho phim hay nhất, đạo diễn, và diễn viên nam chính xuất sắc nhất.

Đến tháng 8 năm 2013 mới nói chuyện The Artist, liệu có muộn quá không?

Với Việt Nam thì không. Vì hai lý do. Thứ nhất, sau hơn hai năm ra mắt, sắp tới đây, The Artist mới chính thức đến với khán giả Việt, trong chùm phim Pháp tại Megastar. Thứ hai, The Artist sẽ chẳng bao giờ là cũ với một xã hội đang khủng hoảng sâu sắc về giá trị như xứ sở này, hôm nay. Điều này đúng với cả hai nghĩa: câu chuyện trong The Artist; lẫn câu chuyện về thành công của The Artist.

Ở The Artist có nhiều điều làm ta nghĩ và khiến ta thấy bùi ngùi. Chuyện xảy ra với George Valentin chẳng có gì là mới: đó là điều xảy ra với điện ảnh nói chung và rất nhiều diễn viên nói riêng, khi phim có tiếng dần dà xóa sổ phim câm trong thập niên 20 của thế kỷ trước. Nhưng không vì thế mà The Artist mất đi tính thời sự, mà ngược lại. Bộ phim là một ví dụ tiêu biểu cho sự đào thải của cái cũ và lấn át của cái mới, một quá trình thường là rất nghiệt ngã và chưa bao giờ thiếu vắng những mất mát và tổn thương trong lịch sử điện ảnh: từ phim câm sang phim có tiếng, từ phim đen trắng sang phim màu, từ phim chiếu rạp sang phim video, từ phim “thật” sang phim kỹ xảo, từ phim nhựa sang phim digital, và từ phim 2D sang phim 3D.

Trải bao vật đổi sao dời, rất nhiều thứ đã rơi rụng, đã bị loại bỏ và nằm lại trên con đường tiến hóa ấy. Nhìn vào số phận của George Valentin, ta thấy nỗi niềm chung của những con người vẫn luyến tiếc, trung thành, thậm chí tôn thờ những giá trị cũ. Không chỉ trong điện ảnh, mà trong mọi ngành nghệ thuật, và trong cả cuộc sống nói chung. Chung một tâm sự với chàng diễn viên phim câm là những người vẫn say mê từng khuôn hình 4:3 đen trắng của Charlie Chaplin hay Orson Welles, từng thước phim về đại mạc hoang lương đã xây xước vì năm tháng của Sergio Leone, từng nét vẽ 2D mượt mà tròn trịa của Walt Disney thời hoàng kim – khi mà sức mạnh kim tiền chưa biến các nàng công chúa thành thứ công cụ ăn dỗ trẻ con như bây giờ.

Có thể xã hội sẽ thấy họ cực đoan, thậm chí cố chấp. Nhưng chính nhờ những con người ấy mà lịch sử điện ảnh, lịch sử nghệ thuật mới là một dòng chảy liền lạc và bất tận, chứ không phải là những bậc thang rạch ròi, cách biệt nhau. Nâng niu và trân trọng quá khứ, chính là cách thông minh nhất để hướng tới tương lai, có phải vậy không? Nếu đúng, thì đây chính là điều mà xã hội này đang thiếu – chúng ta đang đối mặt với một sự phủ nhận quá khứ nhiệt tình và tuyệt đối hơn bao giờ hết. Xem The Artist, ta bỗng cảm thấy mình có lỗi, vì trong khi thông cảm và đồng cảm một cách dễ dàng với bi kịch của Valentin, nhiều khi ta lại khó chịu và không chấp nhận sự hoài cổ của những người lớn tuổi sống quanh mình.

Nhưng George Valentin đồng thời cũng cho ta thấy một điều ngược lại: không ai có thể sống đời với quá khứ, và phát triển là tất yếu. Sau rất nhiều vật vã, anh đã gác quá khứ sang một bên và đi tiếp. Không chỉ quá khứ, anh còn bỏ lại sau cả sự tự tôn ương ngạnh của một gã trai từng thành đạt, giờ đây phải cầu viện sự giúp đỡ của cô gái nhờ mình mà nổi tiếng. Bởi vì, ở anh, tình yêu điện ảnh đã lớn hơn tình yêu phim câm, lớn hơn cả cái tôi ích kỷ. Đó chính là điều điện ảnh Việt Nam và nghệ thuật Việt Nam đang thiếu. Không ít người vẫn mãi ôm ấp những thành  tựu, cách nghĩ và cách làm của quá khứ, và phủ nhận sạch trơn những nỗ lực của những tiếng nói trẻ trung hơn, mới mẻ hơn. Cũng không ít người vẫn nhân danh Chân Thiện Mỹ (mà kỳ thực là sự bảo thủ, vị thế trưởng thượng, hoặc sự an toàn của bản thân) để bóp chết những cái mới từ trong trứng nước.

Tất nhiên, nhiều người sẽ thấy cái kết của The Artist quá lãng mạn và phi thực tế với một thế giới khắc nghiệt như Hollywood. Nhưng, xét cho cùng, đó là một sự khắc nghiệt rất đỗi công bằng – dù ở thời đại nào, với công nghệ nào, người diễn viên cũng chỉ tồn tại được nếu có tài, thứ giá trị bất biến với thời gian. Bởi vì mọi màu mè hoa dạng sẽ bị lột trần trước ống kính máy quay. Sở dĩ The Artist kết đẹp được như thế, là bởi vì sau tất cả những truân chuyên ấy, George Valentin vẫn là một diễn viên có tài. Nếu anh chỉ là một chú gà trống tốt mã, hoặc không có năng lực thích nghi với một nền điện ảnh mới, thì dù Peppy có nhiệt tình đến mấy, các ông trùm cũng sẽ nói không. Sự công bằng một cách sòng phẳng ấy, cũng là điều từ lâu vắng bóng trong nền nghệ thuật (nếu quả thực một thứ như vậy có tồn tại) ở xứ sở này.

Có ba nhân vật xoay quanh Valentin, và cả ba đều khiến chúng ta phải nghĩ ngợi. Thói đời vốn dĩ phù thịnh khinh suy. Và The Artist là một lời thách đố ngạo nghễ đối với quy luật ấy. Tình cảm của Peppy dành cho chàng nghệ sĩ bị đời ruồng bỏ không hẳn là tình yêu, mà là niềm cảm kích của một kẻ tri âm. “Lúc khanh đang thịnh, khanh còn biết đến tôi, lẽ nào vì khanh suy mà tôi lại quên khanh?” – năm xưa Bồ Tùng Linh từng viết một câu này. Không chỉ Peppy, mà cả người lão bộc Clifton, lẫn chú chó nhỏ Jack, đều không vì anh suy mà quên anh. Valentin, kẻ-không-chịu-lãng-quên, rốt cục đã được đáp đền xứng đáng từ những con người (và vật) không quên lãng.

Cùng chia sẻ cái kết có hậu này với Valentin là Hazanavicius, đạo diễn của The Artist, và cũng là một tình nhân chung thủy, không-lãng-quên khác của điện ảnh thời chưa có tiếng. Lần đầu chia sẻ ý tưởng về một phim câm, đen trắng và chính thống với bạn bè, ai cũng bảo anh điên. Không một ai nghĩ rằng khán giả lẫn nhà phân phối – nghĩa là thị trường – sẵn sàng cho điều đó.

Họ đã nhầm. Tất cả đã sẵn sàng. Sẵn sàng và ngỡ ngàng, khi đón nhận một bộ phim trở về với vẻ đẹp nguyên thủy của điện ảnh, tước bỏ đi mọi phù hoa lộng lẫy bên ngoài. Ở Valentin, ta thấy chính Hazanavicius, chính tình yêu với những bộ phim câm mà những năm tháng tuổi thơ đắm mình trong rạp Max Linder của Đại lộ Poissonière mỗi ngày thứ Tư hay thứ Bảy cùng ông ngoại đã gieo vào trái tim anh. Tình yêu phản phác hoàn chân ấy đã thôi thúc anh mạo hiểm dấn thân vào một lối mòn nhị sắc, vô thanh, và vắng bóng người đi. Để rồi chiến thắng.

Bài đã đăng trên Thể thao Văn hóa Đàn ông số tháng 8/2013.