Có nhiều, nếu không muốn nói là rất
nhiều, cách để làm một bộ phim hay. Lẽ dĩ nhiên, không có cách nào là dễ cả.
Nhưng có một số cách có lẽ là khó hơn những cách khác. Quá duy mỹ thì dễ rơi vào
hào nhoáng mà sáo rỗng. Quá duy cảm thì dễ mất đi sự chặt chẽ cần thiết cho một
tác phẩm điện ảnh (bởi xét cho cùng, điện ảnh là một môn nghệ thuật đầy kỹ
thuật). Người có thể đi thăng bằng trên hai sợi dây ấy không nhiều. Cùng lúc đi
trên cả hai, lại càng ít nữa. Tom Ford, nhà thiết kế thời trang lừng danh, ở
lần đầu lấn sân điện ảnh với bộ phim A
single man, hẳn đã làm rất nhiều người ngạc nhiên khi ung dung đi về trên
cả hai lằn ranh mong manh ấy.
A
single man
của Tom Ford là một bộ phim hoàn mỹ trong sự không hoàn mỹ của chính nó. Có lẽ
không ai tán tụng nó là tuyệt phẩm, là kiệt tác bất hủ của mọi thời đại. Và
chắc chắn là các nhà phê bình đã (và sẽ còn) nhìn ra những khiếm khuyết. Nhưng
bất chấp tất cả, hẳn là không ít người vẫn phải thở dài trước vẻ đẹp mỹ lệ, đầy
nhục cảm, và gần như không tì vết suốt chín mươi chín phút của bộ phim.
Dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của
Christopher Isherwood, A single man là
câu chuyện về một ngày – chính xác là ngày 30 tháng 11 năm 1962, một tháng sau
khủng hoảng tên lửa ở Cuba – của George Falconer (Colin Firth), một giáo sư văn
học người Anh sống ở Los Angeles. Tám tháng sau khi người bạn đời 16 năm của
ông qua đời, Falconer thức dậy vào buổi sớm từ cơn ác mộng về cái chết của Jim.
Khởi đầu ngày mới với tâm niệm đây sẽ là ngày cuối, ông chuẩn bị cho cuộc chết của
mình một cách không thể kỹ lưỡng hơn và phong
cách hơn. Chỉ có điều, ông không ngờ rằng những gặp gỡ và tao ngộ với cô
bạn lâu năm Charlotte (Julianne Moore), cậu sinh viên Kenny (Nicholas Hoult) và
gã trai bao Tây Ban Nha Carlos đã biến hôm ấy thành một ngày đáng nhớ và kết
thúc nó với một cách không thể đẹp hơn, đúng như Dinah Washington thời ấy
thường hay hát: What a difference a day
make! Twenty four little hours…
A
single man hội
đủ các nhân tố cần thiết để trở thành bi kịch. Là người đồng tính, Falconer vốn
dĩ đã rất cô đơn - ai từng xem Milk
thì chắc vẫn chưa quên vào thập niên 70 người đồng tính còn bị kỳ thị ghê gớm ra
sao tại Mỹ, và càng cô đơn hơn khi mất đi người bạn đời đích thực. Mỗi nhân vật
phụ cũng đều bi kịch theo cách của riêng mình: Charlotte thất bại trong hôn
nhân, Kenny hoang mang giữa cuộc đời, và Carlos tan vỡ giấc mơ Hollywood. Tất
cả sống khắc khoải trong bóng mây thảm họa hạt nhân bao trùm nước Mỹ ở thời
điểm ấy. Tom Ford không né tránh điều đó, mà ngược lại, tiếp cận nó một cách
trực diện, song với một góc nhìn đầy mỹ cảm và phong cách (stylistic). Và đi cùng với nó là một nỗi niềm đồng cảm
sâu xa – bản thân Tom Ford cũng là một người đồng tính. A single man, bởi thế, rất buồn, nhưng cũng rất đẹp. Đẹp tới mức làm
khán giả sững sờ, gần như quên mất đây là bi kịch. Đẹp tới mức chỉ có thể diễn
tả bằng một từ: kinh diễm.
Câu chuyện của A single man giản dị. Thách thức với Tom Ford vì thế không phải là
sẽ kể gì, mà là kể nó ra sao? Có những người làm biên kịch, quay phim rất giỏi,
nhưng lại thất bại khi chuyển sang đạo diễn. Vậy thì tại sao, một nhà thiết kế
thời trang, kinh nghiệm điện ảnh rất ít ỏi, lại thành công ngay ở bộ phim đầu
tay? Câu trả lời có lẽ nằm trong vùng đất chồng lấn giữa thời trang và điện
ảnh. Cả hai, xét đến tận cùng, đều là những môn nghệ thuật thị giác. Tom Ford
có thể không hiểu biết rành rẽ về điện ảnh như dân trong nghề. Nhưng anh lại sở
hữu một thứ hiếm người có được: một bản năng mỹ cảm thiên phú, một nhãn quan về
phong cách ưu việt, điều đã giúp anh
vực dậy Gucci từ chỗ suy tàn và biến
nó thành một thương hiệu hùng mạnh của thời trang thế giới. Mỹ cảm của Tom,
cộng với diễn xuất của Colin Firth và nhạc của Korzeniowski (soạn nhạc cho Metropolis) đã làm nên một A single man lung linh trên mỗi một
khuôn hình.
Nét độc đáo nhất ở A
single man là cách xử lý màu sắc của Tom. Những tông màu nóng và lạnh được
sử dụng đan xen ở nhiều cấp độ tương phản khác nhau nhằm khắc họa sự đa dạng về
cảm xúc của nhân vật. Mỗi khi Falconer u uất, màu phim trầm xuống và bợt đi. Và
trong những phút hưng phấn hiếm hoi khi ông tiếp xúc với nguồn sinh khí dạt dào
hơn từ những con người khác, khuôn hình bừng sáng với những gam màu nóng. Cùng
một đoạn thoại, những khi ống kính hướng vào Falconer, tông màu chìm xuống. Chuyển
sang Kenny, tất cả lại rực lên với vẻ tươi tắn của chàng trai 20 tuổi. Mỗi khi
Falconer hoài niệm về Jim, ký ức lại lung linh trong sự tương phản sống động với
cái ảm đạm của hiện thực. Sự tương phản ấy còn dữ dội hơn trong đoạn gặp gỡ
giữa Falconer và Carlos. Đó vừa là sự tương phản của nhân vật – một kiệt quệ
khát khao, một căng đầy nhựa sống; vừa là sự tương phản của ngoại cảnh – tà huy
đỏ rực đổ bóng lên tấm poster khổ lớn màu xanh lợt, nơi đôi mắt kinh hoàng của
Janet Leigh ở Psycho đang nhìn sâu
vào lòng khán giả trong một nỗ lực tuyệt vọng để tìm lối thoát cho mình.
Sự chắc chắn tuyệt đối về sinh mệnh
của mình (sẽ kết thúc khi ngày hết) đã khiến mọi giác quan của Falconer như
căng ra và nhạy bén hơn. Khi cận kề sự chết nhất cũng là lúc ông mẫn cảm nhất
với vẻ đẹp đầy mộng mị của sự sống, cho dù đó là mồ hôi trên bờ ngực trần của
một tay vận động viên tennis, màu son môi và mùi nước hoa trên tóc mai cô thư
ký, hay đôi chân gày gò nhưng vẫn chứa chan nhựa sống của cô bé Jennifer. Tom
Ford khắc họa điều đó bằng những cú máy macro –cách giải quyết có thể là hơi
nghiệp dư đối với một số người, nhưng lại phản ánh rõ nét nhất lối tiếp cận
trực diện thường thấy ở anh. Sự thẳng thắn đến bạo liệt ấy của Tom đã nhận được
một sự bổ sung ăn ý qua diễn xuất tiết chế và thâm trầm từng làm Colin Firth
nổi danh với Kiêu hãnh và Định kiến. Với
nét mặt Ănglê biểu cảm mãnh liệt trong mỗi cái nhíu mày, Firth diễn rất đạt nỗi
cô đơn và niềm tuyệt vọng luôn bị kìm nén dưới vẻ ngoài lịch lãm của Falconer. Cũng
tuyệt vọng như bạn mình và còn thất bại thê thảm trong hôn nhân, nhưng
Charlotte của Julianne Moore lại mang đến một hơi thở hồn nhiên và vô ưu. Chính
cô, cùng với Kenny, đã giúp Falconer tái sinh. Nếu như cô níu ông lại bằng
trách nhiệm của tình bằng hữu, thì Kenny, bằng ánh mắt và nụ cười rạng rỡ sắc thanh
xuân, bằng niềm chân thành tuổi trẻ, đã giúp ông vượt qua quá khứ, vượt qua
Jim, để rồi trả lại cho ông niềm yêu cuộc sống, cho một ngày của ông thực sự là
trọn vẹn.
Điểm mạnh của Tom, trong chừng mực nào
đó, cũng chính là điểm yếu của anh. Bản năng của một art-director lâu năm trong
ngành thời trang có lẽ đã cuốn Ford đi trong cách anh bài trí và bố cục bộ phim
của mình. Mỗi một khung hình của A single
man đều có thể trở thành một tấm print-ad hoàn hảo. Cách Falconer xếp đặt
tư trang của mình để chuẩn bị tự tử không còn là sự chỉn chu của một giáo sư
đại học, mà mang đậm dấu ấn của một stylist. Và đoạn hồi ức đen trắng của
Falconer về Jim, nếu như thêm vào một chai Yves
Saint Laurent M7 thì hẳn là không khác gì một bức hình quảng cáo nước hoa for
men chính hiệu. Với một nhà phê bình
khắt khe, đó sẽ là những điểm trừ. Nhưng đồng thời, chất stylistic của Tom cũng góp phần xóa nhòa đi ranh giới giữa video
quảng cáo và điện ảnh, và đó cũng có thể tính là điểm cộng cho anh.
Có những giây phút ở A single man, Tom làm ta nhớ đến hai bậc
thầy khác về mỹ cảm – Almodovar và Vương Gia Vệ. Nếu bức poster khổng lồ làm
khán giả liên tưởng đến All about my
mother thì những thanh âm se sắt rất Umebayashi sau mỗi khuôn hình quay
chậm lại gợi nhớ về In the mood for love.
Nhưng, có lẽ, với Tom, người hiểu rất rõ sự khác biệt giữa sáng tạo và sao
chép, sự tương đồng ấy là một cách không thể đẹp hơn để tôn vinh những con
người cùng chia sẻ với anh niềm đam mê dành cho mỹ cảm.
Trong một thế giới nơi lợi nhuận thống
trị điện ảnh, những con người như Pedro Almodovar và Vương Gia Vệ ngày càng ít
đi. Bởi thế cho nên, chúng ta có mọi lý do để vui mừng, khi có thêm một người
gia nhập hàng ngũ ấy. Tháng 6/2010 vừa qua, Tom tiết lộ anh đang theo đuổi một
dự án điện ảnh thứ hai. Và với những gì anh đem đến ở A single man, chúng ta có mọi lý do để cùng chờ đợi.