“Chúng ta có thể nói Đức
vua đã băng hà, nhưng chẳng thể hô lên Đức vua vạn tuế, bởi không có ai kế vị. Sẽ
chẳng bao giờ có cả.” Hoàng tử của người Do Thái (Ben-Hur, Ten Commandments) và Tây Ban Nha (El Cid), Charlton Heston từng nói vậy, về cái chết của người được mệnh
danh là “Ông hoàng của Hollywood,” Clark Gable.
Tại vương quốc phù hoa của
điện ảnh, nơi các ông hoàng bà chúa mọc lên như nấm sau mưa và cũng mất ngôi
như cơm bữa chỉ sau một bộ phim, Clark Gable đã trị vì xấp xỉ ba mươi năm.
Nếu cần phải nói một điều
duy nhất về triều đại mang tên Gable thì đó là sự ổn định. Khác với đóa hoa nở
muộn Bogart, và khác với kẻ thăng trầm Brando, từ khi khiến trái tim khán giả nữ
thổn thức với A Free Soul (1931), Gable
đã chính thức đoạn tuyệt với những vai phụ, và trong hơn 60 bộ phim tiếp theo của
đời mình, luôn là kép chính, mười sáu lần ghi tên vào danh sách mười ngôi sao
ăn khách nhất tại Mỹ. Hãy hình dung một người đàn ông đã đóng cặp với gần như tất
cả các mỹ nhân Hollywood trong ba thập niên: Joan Crawford, Jean Harlow, Vivien
Leigh, Ava Gardner, Grace Kelly, Sophia Loren v.v… và ở tuổi năm mươi chín, trước
khi đột ngột qua đời vì bệnh tim, vẫn còn đủ hấp dẫn và nam tính để sánh vai với
Marilyn Monroe!
Con đường dẫn đến ngai vàng
của Gable, dầu vậy, không hề rải hoa hồng. Sinh ra trong một gia đình nghèo, phải
lòng kịch nghệ từ năm mười bảy tuổi, Gable ngụp lặn trên những sân khấu hạng
hai hàng năm trời và làm đủ nghề để kiếm sống cho tới khi gặp giám đốc nhà hát Josephine
Dillon. Mất mẹ từ nhỏ, Gable, một cách bản năng, tìm thấy nơi người phụ nữ hơn
mình 14 tuổi cảm giác an toàn và, trên hết, một người thầy lý tưởng. Dillon là
người đã nhào nặn gã trai Ohio gầy gò, lộc ngộc và có giọng nói khó nghe thành
một người đàn ông thực thụ, nam tính, biểu cảm, đài từ tốt, tóm lại là sẵn-sàng-cho-Hollywood.
Mặc dù vậy, cũng phải mất
sáu năm từ khi họ đến L.A. với tư cách vợ-chồng và quản lý-diễn viên, qua khá
nhiều vai quần chúng và vai phụ, Gable mới lọt vào mắt xanh của Louis B. Mayer,
chủ hãng MGM. Chỉ trong vài năm, chất nam tính bụi bặm, cặp mắt phong lưu và
đôi má lúm đồng tiền làm tan chảy trái tim phụ nữ nhanh chóng biến Gable thành “quốc
bảo” của MGM. Nhưng điều trớ trêu là bộ phim mang lại Oscar duy nhất và biệt hiệu
Nhà vua cho Gable, It Happened One Night (1934), lại ra đời khi anh được MGM cho
Columbia mượn.
Sau mười năm ngự ở ngôi
cao, Gable đăng lính, trở thành phi công chiến đấu ở chiến trường Châu Âu, và
xuất ngũ năm 1945. Hai năm tuy ngắn với đời người, nhưng đủ dài để một dàn sao mới
nổi lên ở Hollywood, thế chỗ những người vắng mặt. Nhưng ngai vàng vẫn để trống,
chờ Gable quay về. Có điều, Nhà vua không còn trẻ nữa, Ngài đã sang tuổi bốn
mươi tư. Tuy vẫn có thêm những tác phẩm để đời như Command Decision (1948), Mogambo
(1953), hay The Misfits (1961), Gable
không bao giờ tìm lại được nét phong quang vô hạn của thời kỳ trước Thế chiến.
Mặc dù vậy, hai lần tái phát hành của Gone
with the Wind năm 1947 và 1954 cũng là hai lần tình yêu khán giả dành cho
chàng Rhett Butler có dịp hồi sinh mạnh mẽ.
Có thể bộ phim lừng lẫy
nhất của Gable là Gone with the Wind,
còn vinh quang nhất là It Happened One Night,
nhưng Red Dust (1932) lại chính là
tác phẩm có tính tiên tri và xác lập hình tượng Gable, dù khi đó trên môi anh vẫn
chưa có bộ ria sẽ thành kinh điển. Hai mươi mốt năm sau, Mogambo, bản remake của nó, một lần nữa tái khẳng định điều này.
Gable vào vai một gã đàn ông phong trần ở một xứ thuộc địa, say mê một thiếu phụ
thượng lưu, nhưng phút cuối lại nén lòng rút lui vì không nỡ hủy hoại cuộc hôn
nhân của nàng và người chồng chất phác. Ở cả hai phiên bản, cô gái còn lại (và
cũng yêu nhân vật của Gable) trìu mến giễu cợt: “Tới phút chót anh lại đâm ra
cao thượng, hả?” Đời Gable đã đóng đủ loại vai, nhưng trong huyết quản của gần
như tất cả những nhân vật ấy đều chảy chung dòng máu có tên là Cao thượng. Đó
là gã lừa đảo trong Hold Your Man (1933),
sẵn lòng vào tù để cưới cô gái mình yêu và cho cái thai trong bụng cô một danh
phận. Đó là tay phóng viên nghèo kiết xác ở It
Happened One Night, không thèm một xu tiền thưởng nhưng lại đòi bằng được $39.60
đã tiêu cho con gái nhà tài phiệt. Đó là tay chủ quán bar ở San Francisco (1936), dù có hợp đồng trong
tay nhưng vẫn sẵn sàng để cô ca sĩ gã thầm yêu ra đi, “chỉ cần em nói một lời.”
Và đó là Rhett (các chị em: ôi Rhett!!!)
Một điểm khác biệt căn bản
giữa thế hệ các diễn viên studio như Gable và như Cary Grant với những hậu bối
sau này, là mối liên hệ giữa con người ngoài đời với con người điện ảnh. Điều
này một phần cũng xuất phát từ cơ chế vận hành của hệ thống studio thời kỳ đó: các
diễn viên ký hợp đồng với studio, được trả lương theo tuần, đóng phim của
studio đó, theo những kịch bản được chọn sẵn cho họ. Và các chủ studio luôn muốn
nhào nặn kép ruột theo một hình mẫu lý tưởng để câu hồn khán giả. Hệ quả là các
vai diễn luôn có sự nhất quán cao độ, cốt tủy trong tính cách của nhân vật được
“trích xuất” từ chính hình ảnh ngoài đời của diễn viên. Điều đáng nói là Gable
cũng chia sẻ suy nghĩ ấy. “Tôi chưa và sẽ không bao giờ là một diễn viên. Những
gì khán giả thấy trên màn ảnh chính là tôi.” Gable từng từ chối khóc ở Gone with the Wind, đơn giản vì Rhett
Butler, theo anh, không phải là mẫu người rơi lệ. Một cảnh ở The Misfits cũng bị lược bỏ theo yêu cầu
của Gable, bởi vì cũng như Dennis Carson (Red
Dust) và Victor Marswell (Mogambo), Gaylord Langdon không thể cướp
đàn bà của bạn. Chính sự tương đồng này đã khiến Gable gắn bó được với MGM
trong thời gian kỷ lục là 24 năm trời.
Và cũng chính sự tương đồng
ấy đã biến Gable thành một biểu tượng của điện ảnh. Đọc những tư liệu về Gable,
người ta thấy hiện lên một tính cách quý phái, một khí độ vương giả. Trải qua
năm cuộc hôn nhân và rất nhiều cuộc tình ngắn ngủi, Gable hầu như không để lại
một lời oán thán nào từ những người đàn bà đã đi qua đời anh. Ở nơi người ta
đánh nhau sứt đầu mẻ trán vì cỡ chữ của tên mình trong phần credit, Gable sẵn
lòng để các bạn diễn trẻ đứng ngang hàng –một cú hích cho cả tên tuổi và sự
nghiệp của những Turner, Gardner hay Kelly. Không khó nhận ra cá tính này trong
những vai diễn của Gable, đặc biệt là The
Hucksters (1947), nơi anh vào vai một chuyên gia quảng cáo, quan hệ thân mật
và hòa nhã với hết thảy mọi người, hay Mutiny
on the Bounty (1935), nơi Gable hóa thân thành viên thuyền phó làm binh biến
vì không chịu được sự tàn bạo của thuyền trưởng với thủy thủ đoàn. Và, không thể
bỏ qua một chi tiết: Gable đã từng đi lính, từng vào sinh ra tử thật sự. Tại đất
nước của câu nói nổi tiếng “Hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc?”, diễn viên Gable
có thể được hâm mộ, song Thiếu tá Gable mới là người có được sự kính trọng.
Hậu thế có không ít người
phê phán nhân vật của Gable quá một chiều, thiếu đi sự “biến hóa” như các diễn
viên theo trường phái Method – tức là đóng đủ loại vai, có tâm lý và tính cách
phức tạp. Bản thân Gable luôn xem mình là kẻ may mắn, một kẻ chưa được học hành
tử tế về diễn xuất, nhưng vẫn trở thành ngôi sao “vạn người mê.” Nhưng những người
phê phán Gable quên mất một điều: đó là Gable, cũng như mọi nghệ sĩ khác, đều
là sản phẩm của thời đại. Và Gable, trong sự ổn định và hình tượng nhất quán của
mình, chính là đại diện tiêu biểu nhất cho thời hoàng kim của kỷ nguyên studio.
Mỗi lần xuất hiện trên màn bạc, xưa cũng như nay, Gable đều khơi dậy vô số tiếng
thở dài não nùng từ phụ nữ và ánh mắt ngưỡng mộ xen lẫn ghen tị của cánh đàn
ông. Thứ ma lực ấy không thể đến từ may mắn, cũng không hoàn toàn từ sự bền bỉ suốt
ba mươi năm. Để khắc câu nói “Frankly, my dear, I don’t give a damn!” vào lịch
sử, và để biến nụ hôn với Vivien Leigh trên nền trời đỏ lửa Atlanta trở thành bất
tử, Clark Gable cần nhiều hơn thế. Điều mà anh cần, và có, là chân mệnh. Của kẻ
sinh ra để làm vua.