Wednesday, July 18, 2012

Có một Pixar đã qua đời

Suốt từ đầu năm nay, bộ máy marketing của Disney đã hoạt động hết công suất nhằm quảng bá cho bộ phim cổ tích đầu tiên, bộ phim công chúa đầu tiên, và bộ phim có đạo diễn nữ đầu tiên của Pixar: Brave. Trên thực tế, Brave rất thành công ở phòng vé, nhận được nhiều phản hồi tích cực của cả khán giả lẫn giới phê bình. Nhưng những thành công ấy, xét cho cùng, vẫn không che giấu được một sự thật đáng buồn: Brave đánh dấu sự lụi tàn của Pixar – studio đã hai mươi lăm năm nay giữ ngôi vị độc tôn về sức sáng tạo của công nghiệp hoạt hình Mỹ.

Không thể phủ nhận Brave là một bộ phim tốt – hình ảnh đẹp có, câu chuyện lớp lang có, cao trào có, căng thẳng có, hài hước có, thông điệp có… Tóm lại là có đủ mọi yếu tố thỏa mãn yêu cầu của đa số khán giả Việt, nhất là khán giả nhí, từ lâu đã ăn quen và ăn ngon miệng món bánh-ngọt-hoạt-hình của Hollywood. Nhưng, điều duy nhất thiếu vắng ở đây, mà cũng là điều những người yêu Pixar chờ đợi nhất ở đây, lại chính là điều gắn liền với hình ảnh nhóc đèn Luxo Jr. bấy lâu nay: trí-tưởng-tượng và óc-sáng-tạo.

Thật ra, nỗi lo đã nhen nhóm từ khi Disney thâu tóm Pixar vào năm 2006. Nhưng Wall-E, UpToy Story 3 đã phần nào làm người hâm mộ yên tâm rằng dù đã trở thành công ty con, Pixar vẫn giữ được sự độc lập sáng tạo với hãng mẹ Disney.

 Tiếc thay, sau thất bại của Cars 2, bộ phim bị giới phê bình đánh giá là “một màn quảng cáo đồ chơi tồi”, nỗi lo ấy lại xuất hiện và đến Brave thì cuộc kháng cự anh dũng của Pixar trước kẻ thôn tính Disney đã thật sự kết thúc. Brave không còn lại chút gì nữa dấu vết của trí tưởng tượng phi thường từng làm mê đắm người xem của Toy Story hay Finding Nemo, mà chỉ còn là một câu chuyện công chúa cũ mèm và công thức của Disney. Mái tóc đỏ được render kỳ công của Merida chỉ là thứ yếu, nếu xét đến việc cô là công chúa thứ n của Disney “nghe theo tiếng gọi trái tim” và chiến đấu giành quyền làm chủ vận mệnh: Ariel nghe theo tiếng gọi của tình yêu, cưỡng lại cha mình; Jasmine nghe theo tiếng gọi của tình yêu; cưỡng lại cha mình, Pocahontas nghe theo tiếng gọi của tình yêu và cưỡng lại sự xung đột giữa hai nền văn minh. Merida cũng vậy, nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ cái đích của nàng không phải là bạch mã hoàng tử mà là tự do. Mà nghĩ cho cùng, nàng chính là sự kết hợp không lấy gì làm mới mẻ giữa Rapunzel và Mộc Lan (mái tóc + tài bắn cung).

Công bằng mà nói, nếu là sản phẩm của một studio khác, Brave có thể được xem là một thành công. Nhưng đây lại là Pixar, và Pixar là gì suốt hai mươi lăm năm qua nếu như không phải là biểu tượng của việc lợi nhuận không thể gò bó điện ảnh vào công thức và kìm nén sáng tạo trong khuôn khổ? Pixar đã gieo vào lòng khán giả hạt giống của sự kỳ vọng và đặt ra cho mình một chuẩn mực không thể thấp hơn. Những nhân vật công thức như vua, hoàng hậu, hay những cảnh hài y như sách của Brave thể làm ta cười đôi chút, song nó cũng chỉ mua vui được vài trống canh trước khi đi vào quên lãng. Thứ duy nhất Pixar ở đây có lẽ chính là La Luna, bộ phim ngắn chiếu trước khi vào phim chính. Còn Brave, đặt cạnh những tuyệt phẩm một thời của Pixar, chỉ là màn ra mắt cầu kỳ cho thành viên tiếp theo trong bộ sưu tập Búp bê Công chúa của Disney mà thôi.

Trước khi Brave ra đời, có thông tin chính thức cho biết sắp tới Monsters Inc. cả Finding Nemo sẽ có phần hai. Còn nhớ, trước kia Pixar từ chối mọi sequel (trừ Toy Story) nhằm bảo trì tính sáng tạo tuyệt đối và duy nhất của mỗi tác phẩm. Đó đã là chuyện của quá khứ. Các ông chủ lớn không chấp nhận cảnh những con gà có thể đẻ trứng vàng lại nằm trong tủ kính viện bảo tàng.

Biết làm sao được. Hollywood mà. Ta chỉ có thể thở dài và nói: Vĩnh biệt, Pixar!

Bài đăng trên Đẹp số tháng 8/2012

Monday, July 16, 2012

Sát Phá Lang

Có một điều ở phim võ thuật hình như không thật sự tuân theo quy luật chung của điện ảnh chính thống: một câu chuyện bình thường, nhiều khi vẫn làm nên một phim võ thuật ra trò. Có lẽ vì một phần không nhỏ (nếu không muốn nói là lớn nhất) cái hay của phim võ thuật nằm ở những cảnh quyết đấu. Những phim vừa có câu chuyện tốt vừa có võ thuật phi phàm rất hiếm hoi, và mỗi khi chúng xuất hiện, người xem lập tức biết ngay: bộ phim này, kể từ mai, sẽ có chỗ trong “đền thiêng” của thể loại võ thuật.

Sát Phá Lang là một phim như thế.

S.P.L. ra đời trong một bối cảnh có thể nói là “người trước chẳng thấy ai, người sau thì chưa thấy.” Bước vào thập niên 2000, Lý Liên Kiệt sa sút đáng kể từ khi sang lập nghiệp ở Hollywood. Những bộ phim “made in USA” của Lý vẫn làm khán giả phương Tây thỏa mãn, nhưng lại khiến khán giả Châu Á hoang mang. Tất cả chờ đợi trong tuyệt vọng người sẽ kế tục anh để trở thành tượng đài mới của điện ảnh võ thuật. Nỗi hoang mang càng tăng thêm gấp bội trước sự ra đời và áp đảo của Ngọa hổ tàng longAnh hùng – những tác phẩm cổ xúy cho wire-fu, phát huy kỹ xảo thay vì võ thuật thực chiến.

Trong thời điểm ấy, S.P.L. xuất hiện, uy mãnh như một chiêu Kiến long tại điền của Kiều Phong, và có thể nói đã khắc vào vách đá dòng chữ: Bắc Lý (Liên Kiệt), Nam Chân (Tử Đan). Thật ra, sự ganh đua này đã nhen nhóm từ 1992, khi Chân và Lý, dưới sự chỉ đạo của Viên Hòa Bình, cũng đã tạo nên một cảnh quyết đấu kinh điển trong Hoàng Phi Hồng II. Trước S.P.L., Chân đã nổi tiếng với Thiết mã lưu (Iron Monkey) và nhiều phim khác, nhưng phải đợi đến S.P.L., vị thế không thể tranh cãi của anh trong làng điện ảnh võ thuật Hongkong mới được xác lập. Và không chỉ vậy, S.P.L. còn đánh dấu sự nổi lên của một ngôi sao mới, hứa hẹn kế tục Lý và Chân: Ngô Kinh.

Khác với phần lớn phim võ thuật, S.P.L. chỉ có duy nhất hai trường quyết đấu, song cả hai đều ác liệt tới mức làm người xem phải rùng mình. Thứ nhất là Phá Quân (Chân Tử Đan) chiến Thất Sát (Ngô Kinh), thứ hai là Phá Quân đấu Tham Lang (Hồng Kim Bảo).

Trong những cảnh giao đấu, thì giao đấu trong không gian hẹp bao giờ cũng hấp dẫn nhất, vì quyết chiến sinh tử vốn dĩ đã căng thẳng lại bị cái bức bối của không gian bóp nghẹt thêm một tầng. Và Chân Tử Đan hình như đặc biệt có duyên với những ngõ hẻm: năm 2005, tại ngõ hẻm của một tòa thành đất ngoài đại mạc, Sở Chiêu Nam của anh đã tử chiến với Phong Hỏa Liên Thành trong Thất kiếm. Lần này, ở một ngõ hẻm Hongkong, anh đối diện với sát thủ A Kiệt trong một trận ác đấu làm ta không khỏi liên tưởng đến một ngõ hẻm khác, của 13 năm trước, khi Nạp Lan Nguyên Thuật đối mặt với Hoàng Phi Hồng. Chỉ khác có một điều: khi xưa hai cao thủ dùng trường côn, một cứng một mềm, còn nay là đoản đao đấu đoản côn. Một tấc ngắn là một tấc hiểm, bọn họ lao vào nhau bằng những chiêu sát thủ, đúng tác phong “nhanh, chuẩn, độc” thường thấy ở truyện Cổ Long. Có một điều đáng chú ý là sát thủ mặc đồ toàn trắng còn cảnh sát y phục đen tuyền. Đây, phải chăng là ẩn dụ của Diệp Vĩ Tín về một thế giới hắc bạch khó phân của Hongkong thủa ấy? Cũng phải nói thêm rằng không chỉ võ nghệ phi phàm, tạo hình của Đan cũng cool đến nỗi số khán giả trầm trồ về chiếc áo da và cái cách anh cởi áo ném đi cũng không thua số người hâm mộ võ thuật của anh là mấy.

Công bằng mà nói thì cuộc chiến thứ hai, Mã Quân vs. Vương Phá có phần kém hấp dẫn hơn trận một. Phần vì Hồng Kim Bảo đã già và đã béo, bề ngoài không phải là đối thủ xứng tầm với Chân Tử Đan đang độ tráng niên. Tuổi tác và cân nặng khiến Hồng không còn đủ linh hoạt để thi triển những đòn thế phức tạp như thời đỉnh cao. Chiêu thức mà hai bên sử ra vì thế nặng về cầm nã và đấu vật, dù vẫn cực cùng hung hiểm nhưng lại thiếu đi phần đẹp mắt so với trận trước.

Thế nhưng, càng xem kỹ hai đoạn giao đấu này, người ta càng trân trọng Chân Tử Đan hơn, vì nó thể hiện những nỗ lực không mệt mỏi của anh cả trong vai trò diễn viên lẫn trên cương vị chỉ đạo võ thuật. Nhìn lại một loạt phim của Đan thời gian qua như Đạo hỏa tuyến, Diệp Vấn 1 2, Thập nguyệt vi thành, Võ hiệp có thể thấy anh luôn không ngừng tìm tòi, thể nghiệm, chắt lọc tinh túy của các nhà các phái, từ Wushu đến Taekwondo, từ Vịnh Xuân đến quyền Thái, từ boxing đến Judo… nhằm mang đến những điều mới mẻ cho điện ảnh võ hiệp. Đây có lẽ là điều khiến Donnie mặc dù thành danh sau nhưng sẽ đứng trước Jet Li trong lòng người hâm mộ.

Nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì có lẽ S.P.L. cũng là một phim võ thuật “coi được” như rất nhiều phim khác. Nhưng, may mắn hơn rất nhiều phim khác, S.P.L. có một câu chuyện khá tốt, và chính điều đó đã làm nên sự khác biệt. Lấy bối cảnh Hongkong trước thời điểm trở về với Đại lục, bộ phim đượm một màu sắc hoài cổ như thể nhớ tiếc thời kỳ hoàng kim của điện ảnh Hongkong. Quả tình, S.P.L. mang âm hưởng của những Anh hùng bản sắcNhân tại giang hồ rất rõ, khi ranh giới trắng đen, thiện ác trở nên rất mơ hồ, kịch bản không phải là điều quá quan trọng và logic cũng chỉ là thứ yếu, chỉ có hào khí và bầu nhiệt huyết nam nhi là muôn đời vẫn đẹp, và vẫn làm người xem ngây ngất, đê mê.

Chính vì thế nên S.P.L. ung dung đi theo một cốt truyện đã trở thành kinh điển: cuộc đối đầu không khoan nhượng giữa cảnh sát với tội phạm; trong đó cảnh sát dù thoái hóa – ngụy tạo bằng chứng, biển thủ tang vật, bóp méo khẩu cung… – nhưng vẫn là những hán tử đầu đội trời chân đạp đất; còn tội phạm dẫu tàn độc, không từ thủ đoạn nhưng vẫn có những nét rất con người. Tuy những sát chiêu đẩy nhân vật của Diệp Vĩ Tín đến hai bờ đối nghịch của sống và chết, nhưng sâu kín trong họ vẫn chảy chung một mạch ngầm cảm xúc rất bản năng: tình phụ tử. Trần Quốc Trung săn đuổi kẻ thù vì muốn trả thù cho con, Vương Phá tàn độc vì muốn được ở bên con, Mã Quân làm cảnh sát vì muốn xứng đáng với cha mình, hai thuộc cấp của Trần chết đi cũng chỉ vì khát khao tìm lại tình phụ tử…

Mở đầu bằng một người cha chết đi để lại đứa con và kết thúc cũng bằng một người cha chết đi để lại đứa con, S.P.L., sau một trường sát kiếp, lại để lại trong lòng người xem không ít những bùi ngùi.

Bài đăng trên Thể thao Văn hóa Đàn ông số tháng 8/2012