Tháng 3 năm 2000, 55 bức tượng Oscar
bị thất lạc trên đường vận chuyển đến Los Angeles chuẩn bị cho lễ trao giải của
Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian đó,
4000 trên tổng số 5600 phiếu bầu bị thất lạc qua đường bưu điện. Hai biến cố đầy
kịch tính ấy có lẽ là sự báo hiệu cho màn ra mắt ở Hollywood
không thể ấn tượng hơn của Samuel Alexander ‘Sam’ Mendes, người đã đoạt giải
Đạo diễn xuất sắc nhất với bộ phim đầu tay, American
Beauty.
Nói về Sam Mendes, có lẽ không có tính
từ nào thích hợp hơn là “kịch tính”. Khi giành giải Oscar, Sam vẫn là một tên
tuổi mới toanh ở Hollywood ; nhưng đối với sân
khấu Broadway và London ,
từ lâu anh đã là một gương mặt kỳ cựu. Bắt đầu khởi nghiệp đạo diễn sân khấu
khi mới ngoài hai mươi tuổi, Sam mau chóng gây được tiếng vang khi trở thành
giám đốc nghệ thuật của Donmar Warehouse, một sân khấu phi lợi nhuận thu hút
được sự chú ý đặc biệt của khán giả London. Đến giờ, khi đã trở thành một đạo
diễn điện ảnh tiếng tăm, Sam Mendes vẫn tiếp tục đeo đuổi kịch nghệ. Hàng trang
điện ảnh của Sam đến nay mới có năm bộ phim (tính cả Away we go, phim hài đầu tiên của anh, vừa ra mắt tháng 6/2009 tại Mỹ),
trong khi anh đã dàn dựng cả thảy 15 vở kịch. Đôi khi người ta có cảm giác, đối
với Sam, điện ảnh chỉ là một kỳ nghỉ cuối tuần, còn sân khấu mới là tình yêu
đích thực. Xem phim của anh, từ American
Beauty tới Road to Perdition và Revolutionary Road, ta đều bắt gặp những
bi kịch sân khấu được điện ảnh hóa. Có lẽ Sam, trong cuộc dạo chơi cuối tuần
với điện ảnh của mình, đã mang tinh túy của Donmar Warehouse thổi lên màn bạc.
Bản năng thiên phú và kinh nghiệm đạo diễn sân khấu đã hình thành trong anh một
nhãn quan điện ảnh đặc biệt. Cả American
Beauty lẫn Road to Perdition đều
đi vào ký ức khán giả và ám ảnh họ bằng những khuôn hình ấn tượng, tăm tối và
lãnh đạm đến kỳ lạ.
Bất chấp dòng máu Bồ Đào Nha thừa
hưởng từ cha mình, có thể nói Sam là một người Anh đích thực. Bởi thế cho nên,
nhìn vào gia tài điện ảnh của anh, không ít người sẽ ngạc nhiên khi thấy tất thảy
những câu chuyện anh kể cho chúng ta, bằng thứ ngôn ngữ điện ảnh đậm sắc màu
sân khấu, luôn là câu chuyện về bi kịch Mỹ. Đó là American Beauty, một tấn
kịch đầy phúng dụ về nỗi bất mãn sống mòn của người Mỹ thời hiện đại. Đó là Road to Perdition, khúc bi tráng về một gã
gangster tìm kiếm sự cứu rỗi cho đứa con trai trong thời kỳ Đại Suy thoái. Đó
là Revolutionary Road , bi kịch về một đôi vợ chồng trẻ khát khao vượt thoát thực tại tầm
thường. Và thậm chí cả Jarhead cũng
là một bi kịch, về nỗi chán chường của những người lính trong chiến tranh vùng
Vịnh.
Vẻ đẹp Mỹ…
Từ khi mới ra đời, American Beauty đã ngay lập tức trở thành kinh điển (instant
classic), được cả khán giả và giới phê bình tung hô là bộ phim hay nhất của năm
1999 (quả có vậy!). Cho đến bây giờ đây vẫn là tác phẩm xuất sắc nhất của Sam
Mendes. Bộ phim là sự kết hợp độc đáo
giữa nụ cười chua cay lẩn quất trên môi Lester Burnham (Kevin Spacey), nhân vật
chính đồng thời là người dẫn chuyện, và ánh sáng ấm áp kỳ lạ tỏa ra từ mối tình
giữa Jane (Thora Birch) và Ricky (Wes Bentley) hai thiếu niên cô độc, lạc lõng
trong chính gia đình họ. Câu chuyện của American
Beauty, thật ra, không hề mới. Lester không phải ông chồng nhạt nhẽo đầu
tiên si mê cô bé tóc vàng bạn học con mình; Carolyn (Annette Benning) cũng chẳng
phải là bà vợ tham vọng đầu tiên say đắm một gã giỏi giang hơn đức ông chồng.
Điều thật sự đã khiến American Beauty
vượt lên, và vượt lên rất xa, so với những bộ phim cùng đề tài, là những chi
tiết nhỏ nhặt nhưng lại có sức biểu cảm mãnh liệt. Đó là tiếng nhạc nền dìu dặt
của ca khúc Bali H’ai vang lên giữa
không khí lạnh lẽo của bữa tối nhà Burnham. Đó là những lời trả treo châm biếm của
cô bé tuổi dậy thì dành cho cha mình. Và, trên hết, đó là hình ảnh chiếc túi ni
lông, bay xao xác như một mảnh linh hồn.
American
Beauty
đầy rẫy bi kịch. Nhà Burnham không phải là một gia đình mà là tập hợp ba bi
kịch sống chung dưới một mái nhà. Nhà Fitts cũng không khá hơn gì với một bộ ba
tương tự, dù họ thuộc một mẫu gia đình rất khác. Thế nhưng khi chìm đắm vào thế
giới bi-kịch-và-chỉ-bi-kịch ấy, khán giả vẫn thấy, như chính Lester đã thừa
nhận ở cuối phim, đời rất đẹp. Câu chuyện dù sắp đặt, nhưng lại không có dù chỉ
một chút gượng ép, mà vẫn tự nhiên như nó vốn phải là như thế. Chính điều này,
cùng khuôn hình tối giản và những giây phút thả cho trí tưởng tượng bay bổng
đến mức hoang đường, đã góp phần không nhỏ vào nét độc đáo kỳ lạ của American Beauty.
Một điều không thể không nhắc đến khi
nói về thành công của American Beauty
là diễn xuất xuất thần của Kevin
Spacey. Ban đầu DreamWorks muốn chọn một gương mặt đình đám hơn, như Bruce
Willis hay John Travolta, nhưng Sam kiên quyết giữ nguyên lựa chọn của mình, và
quả thực Kevin đã không phụ lòng kỳ vọng của anh. Anh không chỉ khắc họa thành
công sự đờ đẫn của anh viên chức 42 tuổi chán chường và thất chí, mà còn đặc
biệt xuất sắc trong những thời điểm phấn khích kỳ quặc của một ông chồng vừa tỉnh
dậy từ cơn hôn mê sâu của cuộc hôn nhân đã chết về cảm xúc.
Không chỉ Spacey, những vai diễn khác (cả
thứ và phụ) của American Beauty đều
xuất sắc, một sự đồng đều hiếm có càng làm tăng giá trị của bộ phim. Trong khi
Thora và Wes, bằng diễn xuất tự nhiên, tạo ra một sự tương phản mạnh mẽ giữa
tình cảm ân cần của họ và mối quan hệ lạnh lẽo đáng sợ của các bậc phụ huynh;
thì Chris Cooper và Allison Janney trong vai bố mẹ Ricky lại bổ sung một áp lực
nặng nề lên câu chuyện, khi bọn họ kẻ lặng im, người giãy giụa trong bi kịch của
riêng mình.
… trên đường Cách Mạng
Mười năm sau ngày thành công cùng American Beauty, Sam Mendes trở lại với đề tài đã đưa anh lên đỉnh vinh
quang. Revolutionary Road, chuyển thể
từ tiểu thuyết cùng tên của Richard Yates, là câu chuyện về Frank và April
Wheeler, một đôi vợ chồng trẻ “hoàn hảo” ở xã hội Mỹ thập niên 50, khát khao
tìm kiếm một sự hoàn hảo khác, ở một
chân trời khác – Paris. Đây cũng là lần tái ngộ đầu tiên của bộ đôi DiCaprio và
Winslet kể từ Titanic. Frank và April
Wheeler vừa phải tranh đấu để giải phóng họ khỏi ngục tù của cuộc đời phố thị,
vừa phải cưỡng lại sức dụ hoặc từ sự tròn trịa của chính cuộc đời ấy, trong một
niềm tin tuyệt vọng rằng họ khác với
số đông.
Revolutionary
Road
là hiện thực, hiện thực thuần túy và tàn nhẫn, không còn lại một chút gì dù là
vẻ trào phúng chua cay hay nét tung tẩy hoang đường ta từng bắt gặp ở American Beauty. Nhưng bi kịch thì vẫn
vậy – vẫn là những mảnh đời ở thành thị Mỹ, bốn mươi năm trước nhà Burnham, vật
lộn trong sự bình thường và vô nghĩa của kiếp trung lưu tẻ nhạt. Bi kịch ấy càng
được nhấn mạnh hơn bởi những khuôn hình bức bối và nhạc nền đơn điệu cố tình
của Thomas Newman – người soạn nhạc cho American
Beauty. Có lẽ chính bởi sự tương đồng này mà rất nhiều người đã, một cách
tự nhiên, so sánh bộ phim với kiệt tác đầu tay của Sam Mendes. Và dĩ nhiên, đặt
trong một phép so sánh tuyệt đối như thế, Revolutionary
Road, vốn nặng nề hơn American Beauty,
khó tránh khỏi chịu phần thua thiệt, mặc dù Leonardo DiCaprio, Kate Winslet (phu
nhân của Sam Mendes), và đặc biệt là Michael Shannon trong vai nhà toán học
thần kinh, đều xuất sắc.
Nhưng, trên thực tế, Revolutionary
Road vẫn rất riêng, dù có thể không đạt đến sự
hoàn hảo như người anh cả. Bi kịch của April Wheeler khác với bi kịch của
Lester Burnham, trước hết vì cô là phụ nữ. Cô có những khát khao riêng, và
những ràng buộc khác rất đỗi đàn bà. Và trên hết: cô vẫn yêu chồng; trong khi
Lester, tự đáy lòng, đã không còn yêu vợ. Khác với Lester ý thức rất rõ về bản
thân, cả Frank và April đều bị dằn vặt bởi ảo tưởng rằng mình ưu tú hơn phần
còn lại của cái cộng đồng nơi họ sống, và bởi thế xứng đáng với một cuộc đời ưu
việt hơn. Nhưng trớ trêu thay, họ không thể rũ bỏ sự tầm thường kia để vươn tới
cuộc đời ưu việt ấy, và nó đã đẩy họ vào một bi kịch không có lối ra trên con
đường có cái tên thật là tàn nhẫn – đường Cách Mạng.
Bài đăng trên Sinh viên Việt Nam bộ mới – Số 42