Ở Việt Nam, một trong những
tính từ thường gặp nhất khi bình phẩm về một bản dịch là “mượt.” Dịch rất mượt.
Mượt dường như đã thành tiêu chí tối hậu để đánh giá chất lượng bản dịch. Dịch
sai nhưng mượt nhiều khi vẫn được khen – dĩ nhiên cái này cũng khó tránh vì phần
lớn độc giả chỉ biết tác phẩm qua bản dịch. Đôi khi tôi tự hỏi: phải chăng vì
ta là một dân tộc của văn học truyền khẩu, của truyện thơ (thời cận đại Việt
Nam gần như không có tiểu thuyết), nên “êm tai” đã thành một thứ chuẩn mực của văn
chương. Không chỉ vậy, êm tai còn là tiêu chí về cách sống – người khôn ăn nói
dịu dàng dễ nghe.
Tất nhiên, nội hàm của chữ mượt
vốn rất vô chừng, và thước đo độ mượt của mỗi người cũng lại khác nhau. Với độc
giả thông thường, mượt nghĩa là trơn tru, sạch sẽ, dễ hiểu. Với độc giả đòi hỏi
(và có thể ở trình độ) cao hơn, đó là mượt mà, bay bổng, đẹp đẽ. Điều oái ăm là
một bản dịch đôi khi bị chê đầy oan uổng là không đủ độ mượt vì trót trung
thành với bản-chất-không-mượt của nguyên tác. Dịch Cormac McCarthy hoặc Raymond
Carver mà mượt thì không hiểu có cách nào giết tác giả tàn nhẫn hơn không? Việt
Nam hình như đã dịch sáu quyển McCarthy, nhưng có vẻ không một cuốn nào gây
được tiếng tăm gì (ngoại trừ The Road),
không biết là do dịch quá dở hay do văn phong McCarthy không hợp khẩu vị độc giả
Việt?
Mượt hay không mượt là một câu
hỏi mà mỗi dịch giả phải tự trả lời cho bản dịch của mình. Vấn đề là làm thế nào để mượt, hoặc không?
Để trả lời câu hỏi ấy, trước
tiên phải tìm hiểu cơ chế cảm nhận văn bản của độc giả. Khi đọc bằng mắt, ta đồng
thời cũng đọc thầm trong miệng và nghe thầm bằng đôi tai ảo trong đầu. Thế nên khi đọc thơ
ta mới cảm nhận được nhạc tính và nhịp điệu của văn bản dù không đọc thành tiếng.
Nếu ví văn bản như một tấm vải thì đọc chính là quá trình ngắm nhìn những họa tiết, đồng thời sờ và cảm nhận xem bề
mặt ấm hay mát, phẳng phiu hay gồ ghề, mịn màng hay thô ráp. Có lẽ một phần cũng
bởi vậy mà cổ nhân vẫn tán tụng một áng văn chương đẹp đẽ là “tú khẩu cẩm tâm”
– lòng gấm miệng vóc. Hiệu ứng thị giác của mượt là điều khá dễ hiểu - độc giả Việt vốn ưa những từ ngữ đẹp đẽ, thanh nhã, giàu sức gợi. Đến mức đôi khi bản dịch vì trung thành với nguyên tác mà bị chê là thô tục. Nhưng tôi muốn bàn đến một khía cạnh ít được chú ý hơn: hiệu ứng thính giác của mượt, hay nói cách khác là “texture” của bản dịch.
Đặc thù của tiếng Việt là thanh
điệu. Trong tiếng Anh I love you có
thể đọc thành ai lớp viu, ài lơp víu, ài lợp vìu… Tiếng Việt chỉ có một cách:
Anh yêu em. Không bao giờ có ành yều èm hay ánh yếu ém. Đây cũng là cái khó của
người nhạc sĩ khi đặt lời bài hát tiếng Việt: dấu thanh phải tương hợp với nốt
nhạc thì hát nghe mới xuôi. Muốn biết một bài hát đặt lời kém trái tai ra sao,
xin mời nghe Quốc tế ca.
Vì thế cho nên, dịch đúng về
nghĩa là một chuyện, điều khiển nhịp điệu của câu văn để tái tạo chính xác âm
hưởng của nguyên tác lại là chuyện khác. Có khi cần du dương uyển chuyển, có lúc
phải mạnh bạo dứt khoát, có khi nên gai góc xù xì, có lúc lại ung dung đài các.
Để làm được điều đó, người dịch phải có cái tai thính nhạy, cảm nhận được từng thay
đổi vi tế trong âm điệu, tiết tấu của văn bản. Khi chọn chữ để dịch, tiêu chí
hàng đầu bao giờ cũng là đúng về nghĩa, nhưng khi có nhiều lựa chọn đúng thì việc chọn
chữ nào có thanh điệu phù hợp nhất sẽ quyết định cái hay.
Lấy ví dụ mấy câu thơ này của
Hoàng Cầm:
Sông Đuống
trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Ở câu thứ tư, nếu ta đảo thành “Xanh
xanh bờ dâu bãi mía” thì về nghĩa rõ ràng không thay đổi gì, nhưng âm điệu nghe
rất nghịch. Đấy là vì chữ mía mang thanh trắc, đặt ở cuối làm câu thơ như bị hất
ngược lên, trong khi chữ dâu là thanh bằng – làm tứ thơ mềm đi và như bồng bềnh trong nỗi
nhớ. Giả sử đây là một câu dịch, và trình tự bản gốc là bờ dâu/bãi mía, thì người
dịch nếu nghe thấy không xuôi hoàn toàn có thể chủ động đảo lại.
Tương tự, câu thứ năm có bản
chép là xanh biếc. Chữ xanh ấy làm sao
hay bằng biêng. Biêng biếc có âm điệu du dương, nghe như dài nhung nhớ. Xanh biếc nghe rất gần, rất thật. Biêng biếc nghe xa xôi và có phần mộng ảo.
Đọc câu này bỗng nhớ bàn tay chấp chới lướt trên cánh đồng lúa mì của Gladiator. Tuyệt đích nhất chính là vần
biếc/tiếc. Hai thanh trắc sắc ngọt như hai nhát dao chém vào tấm lòng hoài hương.
Hai nhát chém để lại dư âm “sao xót xa như rụng bàn tay.”
Phân tích nhảm như vậy để thấy
rằng tiết tấu, thanh điệu có ý nghĩa như thế nào đối với tính biểu cảm của văn
bản. Tôi chọn Hoàng Cầm làm ví dụ bởi thơ của ông rất gần với văn xuôi. Và có
những áng văn rất gần với thơ.
Thứ nhạc cảm văn chương này
không tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một quá trình. Trước năm 25 tuổi, chưa
bao giờ tôi nghĩ đến chuyện dịch sách. Nhưng có lẽ tôi có duyên với nó, bởi từ năm
14 tuổi, tôi đã rất thích cổ văn. Tôi nhớ mười năm trước, có một cô học trò khiến
cả nước chấn động vì chê Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc khô khan, khó hiểu, và khẳng định “10 học sinh như em thì có 9
người cũng không thích tác phẩm này.” Có lẽ tôi chính là cái một người còn lại ấy.
Tôi thích tất cả những bài văn biền ngẫu được học và đọc thêm thời phổ thông – Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bạch Đằng giang
phú… Và dĩ nhiên là tôi mê cổ thi – từ Bầu
trời cảnh bụt của Chu Cán Thần đến Ngọc
lộ điêu thương phong thụ lâm của Đỗ Công Bộ.
Sở dĩ nhắc lại chuyện cũ vì tôi
tin rằng cách tốt nhất để rèn luyện nhạc cảm văn chương là đọc văn biền ngẫu và
cổ thi. Đây có lẽ là một gợi ý khá kỳ quái đối với không ít người. Nhưng thực sự
nó rất logic. Nhiều người chê văn biền ngẫu là lỗi thời. Thể văn này lỗi thời thì
đúng rồi, nhưng thủ pháp của nó thì không bao giờ. “It’s made it harder for a
hardworking family to pull itself out of poverty, harder for young people to start their careers, tougher for workers to retire when they want
to.” Câu này trích từ State of the Union Speech của Obama năm 2016. Không
khó nhận ra, hai cụm in nghiêng là một sự đăng đối hoàn chỉnh. Nó đâu có khác
gì hai câu “Nặng nề những nỗi phu phen, tan tác cả nghề canh cửi” trong Bình Ngô đại cáo? Thủ pháp song hành
(parallelism) trong tiếng Anh và biền văn trong tiếng Việt tuy hai mà một. Câu
tiếng Anh đối tương đồng (harder/tougher) lẫn tương phản (start/retire), câu tiếng
Việt cũng vậy: nặng nề/tan tác là tương đồng, phu phen (đàn ông)/canh cửi (đàn
bà) là tương phản. Một người nắm chắc những thủ pháp của biền văn, chắc chắn sẽ
nhìn ra những dụng tâm tương tự trong phát biểu của Obama, và sẽ dịch tốt bài
diễn văn ấy: Nó khiến con đường thoát nghèo của một gia đình cần lao gian truân
hơn, tham vọng khởi nghiệp của người trẻ trắc trở hơn, mong muốn nghỉ hưu của
người già khó khăn hơn…
So với thứ văn xuôi hùng biện của
tiếng Anh, biền văn còn chặt chẽ hơn, cầu kỳ hơn. Hai câu “nặng nề
những nỗi phu phen, tan tác cả nghề canh cửi” không chỉ đối ý mà còn đối cả từ
láy (nặng nề/tan tác, phu phen/canh cửi), đối thanh và tuân theo luật bằng trắc (nhị tứ lục). Và so với
biền văn thì cổ thi còn cô đọng hơn, biểu cảm hơn – hãy nhớ đôi danh cú của Bà
huyện Thanh Quan: Sóng lớp phế hưng coi
đã rộn, chuông hồi kim cổ lắng càng mau. Có bản chép coi là nghe. Nếu hiểu rõ thủ
pháp đối ngẫu thì ta sẽ thấy ngay coi
là lựa chọn đúng, bởi nghe và lắng đều tả ấn tượng thính giác, riêng coi là ấn tượng thị giác; mỗi câu một vẻ
sẽ khiến tứ thơ đăng đối một cách toàn bích hơn.
Tóm lại, biền ngẫu và cổ thi
chính là uy lực của tiết tấu và thanh điệu vận dụng đến cực hạn, thậm chí cực
đoan. Mỗi chữ đều là kết quả của sự cân nhắc và lựa chọn kỹ lưỡng nhằm tuân thủ những quy tắc khắt khe. Tương truyền Chu Du năm xưa rất sành âm luật, đang ngồi trên tiệc mà nhạc công gảy
sai là ông ngoảnh lại nhìn ngay (thế nên mới có câu thơ “Dục đắc Chu lang cố,
thời thời ngộ phất huyền” – muốn được Chu lang nhìn đến, thỉnh thoảng lại gảy
sai cung đàn). Đọc nhiều, tìm hiểu kỹ biền văn/cổ thi sẽ giúp người dịch có được
sự nhạy cảm tương tự, từ đó có thể dễ dàng khống chế nhịp điệu câu văn theo ý
mình. Không phải lúc nào ta cũng cần đến nó, nhưng tôi dám chắc đây là một kỹ năng sẽ được người dịch sử dụng khá thường
xuyên. Believe me, it helps a lot.