Trung tuần tháng 12, BusinessWeek đăng một phóng sự ảnh bầu chọn
40 nhân vật “quyền lực nhất” Trung Quốc năm 2009. Bên cạnh những gương mặt quen
thuộc như Hồ Cẩm Đào, Yao Ming hay Chương Tử Di, có một cái tên chắc hẳn sẽ khá
lạ lẫm với phần lớn độc giả của một tờ tuần báo chuyên về kinh tế: Lục Xuyên.
Bức ảnh Lục Xuyên trên BusinessWeek là cảnh một trí thức trẻ trắng
trẻo đeo kính cận đứng cạnh chiếc máy quay đen trắng góc rộng, phía sau lố nhố những
người lính Nhật, còn hậu cảnh là một thành phố hoang tàn. Đó là Lục Xuyên trên phim
trường của Nam Kinh! Nam Kinh!, bộ
phim đã làm chấn động cả Trung Quốc khi công chiếu hồi tháng ba năm nay vì đề
tài đặc biệt nhạy cảm của nó: vụ thảm sát Nam Kinh năm 1937.
Đối với không ít độc giả của BusinessWeek, có lẽ đó là lần đầu tiên
họ nghe đến cái tên Lục Xuyên. Nhưng với những người yêu điện ảnh thì không cần
phải đợi đến Nam Kinh. Từ bảy năm
trước, khi The Missing Gun ra đời, Lục
Xuyên đã được biết đến như một tiếng nói mới mẻ của những đạo diễn thế hệ thứ sáu,
và từ bốn năm trước, khi Khả Khả Tây Lý
giành trọn cả giải Kim Kê và Kim Mã, anh đã được xem như một tiếng nói quan
trọng của điện ảnh Trung Quốc đương đại.
Sinh ra trong một gia đình trí thức
(cha anh, Lục Thiên Minh, là một nhà văn nổi tiếng), Lục Xuyên đã có một lựa
chọn khá đặc biệt khi thi vào một trường đại học quân sự; và chỉ chút nữa anh
đã theo đường binh nghiệp (anh đã làm thư ký cho một vị tướng hai năm) nếu như
không có những bộ phim của Bergman, Coppola và Jarmusch mà anh mượn từ thư viện
trường, điều đã đốt lên ngọn lửa thôi thúc anh thi vào Học viện Điện ảnh Bắc
Kinh năm 1996.
Sau mười năm theo nghiệp điện ảnh, Lục
Xuyên mới có trong tay ba bộ phim, và cả ba đều xuất sắc theo cách riêng của
mình, đa dạng về thể loại và đề tài, nhưng lại nhất quán về phong cách. Nếu như
The Missing Gun là một bộ phim hài
châm biếm có kinh phí thấp thì Khả Khả
Tây Lý là một phim mang phong cách nửa-tài-liệu khai thác đề tài bảo vệ môi
trường, trong khi Nam Kinh! với ngân
sách hơn 20 triệu USD lại là một tác phẩm sử thi bi tráng về chiến tranh và
lịch sử. Khác nhau là thế, nhưng ở cả ba đứa con tinh thần của Lục Xuyên, người
ta đều thấy hiển lộ một cá tính gai góc và ngang ngạnh. Nhân vật của anh hình như
luôn mang trong mình bóng dáng của người lính – một điều hẳn đã “cảm nhiễm” vào
anh sau tám năm sống giữa môi trường quân đội. Dù là một tay cảnh sát làng như Mã
Sơn của The Missing Gun, một cựu
chiến binh như Ritai ở Khả Khả Tây Lý,
hay một sĩ quan Quốc dân đảng như Lục Kiếm Hùng ở Nam Kinh!, nhân vật của Lục Xuyên luôn luôn ương bướng như thế, cố
chấp như thế, và, đẹp đẽ thay, bất khuất như thế.
Từ bộ phim đầu tay năm 2002 cho đến
tác phẩm thứ ba vào 2009, Lục Xuyên vẫn luôn nói một thứ ngôn ngữ điện ảnh đơn giản
và thuần phác. Có thể The Missing Gun vẫn còn
chút phô phang vụng về của một đạo diễn mới vào nghề, song sang đến Khả Khả Tây Lý và Nam Kinh! nó đã nhường chỗ cho một vẻ trầm tĩnh đầy trải nghiệm. Cùng
là những cú máy góc rộng quay cận, nhưng điều hiện lên sau ống kính của The Missing Gun là chất kịch tính bi hài
của chốn thôn quê, còn với Nam Kinh lại
là hiện thực tàn nhẫn đến rợn người của chiến tranh.
Có thể Nam Kinh! là bộ phim quy mô lớn nhất và kỳ công nhất (bốn năm) của
Lục Xuyên; có thể nó đã gây tiếng vang rất lớn cả ở Đại lục lẫn trên thế giới;
có thể đó là nguyên nhân khiến tên anh xuất hiện trong danh sách của BusinessWeek, nhưng với rất nhiều khán
giả, Khả Khả Tây Lý đến nay vẫn là
kiệt tác của chàng đạo diễn ba mươi sáu tuổi quê đất Tân Cương này.
Khả
Khả Tây Lý
mê hoặc khán giả, làm họ choáng váng, khiến họ bùi ngùi và buộc họ rơi nước mắt
vì duy nhất một điều: tính chân thực đầy nguyên sơ của nó. Đó là câu chuyện có
thật về một đội kiểm lâm tình nguyện đã dấn thân vào một cuộc chiến âm thầm và
khốc liệt chống lại những kẻ săn trộm linh dương Tây Tạng.
Bộ phim – hay đúng hơn là một thiên
phóng sự – được kể lại qua góc nhìn của Ca Ngọc, một phóng viên đến từ Bắc
Kinh, về công việc của những người bảo vệ bầy linh dương, về cách họ sống và họ
chết – cả hai đều đơn giản như nhau. Điều làm Khả Khả Tây Lý vượt ra khỏi khuôn mẫu một bộ phim tuyên truyền về
bảo vệ môi trường, một thiên anh hùng ca, và một phóng sự tài liệu là việc Lục
Xuyên không giảng đạo lý, không tô hồng nhân vật, và càng không triển lãm Tây Tạng như một xứ sở huyền
bí hòng thỏa mãn cái khoái cảm tò mò nơi khán giả thành thị. Ngược lại, anh để
những thước phim tự nhiên, thô ráp tự nói lên tất cả; anh cho nhân vật sống
đúng với bản ngã của mình – có ham muốn, có bất lực, có sợ hãi và có thỏa hiệp;
sau hết, anh biến bình nguyên Tây Tạng hùng vĩ thành một người bạn đồng hành,
đôi lúc êm đềm, thường xuyên khắc nghiệt, song luôn hiện hữu suốt chiều dài bộ
phim (một điều khó có thể thực hiện được nếu thiếu đi ống kính khoát đạt của
Tào Úc, quay phim chính của Lục Xuyên ở cả Khả
Khả Tây Lý lẫn Nam Kinh!).
Khách quan nhưng không hề bàng quan,
Lục Xuyên khắc họa hai tuyến nhân vật trong Khả
Khả Tây Lý – kiểm lâm và săn trộm – qua cùng một lăng kính điềm đạm và đầy chất
nhân văn. Sự cân bằng và toàn diện này đã không dừng lại ở Khả Khả Tây Lý, mà còn được Lục Xuyên đem đến cho Nam Kinh, và chính điều đó đã góp phần
đáng kể vào thành công của cả hai bộ phim.
Trong Khả Khả Tây Lý, ranh giới giữa đúng và sai dường như trở nên quá
đỗi mơ hồ ở độ cao 4700 mét, nơi chạy bộ chỉ vài trăm mét cũng đủ trào máu mũi,
nơi cát lún có thể lấy đi sinh mạng con người một cách âm thầm, không tiếng
không hơi. Trong khung cảnh ấy, những màu mè hoa dạng của cuộc sống không còn
nơi bấu víu và bị rũ bỏ không thương tiếc. Những con người sẵn sàng hy sinh
tính mạng để bảo vệ linh dương cũng lại sẵn sàng phó thác sự sống chết của tù
nhân cho sa mạc. Những tên tội phạm ngoan cố cũng là những con người sẵn lòng giúp
đỡ kẻ bắt giữ mình. Chất hào sảng không câu thúc đạo lý của miền sa mạc ấy có
chút gì phảng phất gợi cho ta nhớ đến những cuốn phim Viễn Tây lừng lẫy một
thời của Sergio Leone. Chỉ có điều tiếng súng ở đây không đanh gọn chát chúa
như miền Tây nước Mỹ, mà bị nhận chìm và bóp nghẹt trong bầu không khí loãng của
cao nguyên – cũng như những vai diễn của con người trong phim, dù có xuất sắc đến
đâu, cũng vẫn bị lu mờ trước một diễn viên luôn đứng ở hậu cảnh: thiên nhiên.
Thoáng nhìn qua, Khả Khả Tây Lý dường như là câu chuyện giữa người với người – giữa
kiểm lâm và săn trộm. Kỳ thực, đi đến tận cùng, đó là câu chuyện giữa con người
với thiên nhiên. Có lẽ vì vậy mà lời thoại của phim đã trở thành tối giản để
nhường chỗ cho hình ảnh. Và, có lẽ, những hình ảnh rung động nhất của Khả Khả Tây Lý không phải những giây
phút đầm ấm hay tàn nhẫn giữa người với người, mà lại là những thời khắc con
người hiện lên thật nhỏ bé trước thiên nhiên, hoặc thật độc ác với thiên nhiên.
Từ nghi lễ thiên táng của người Tây Tạng đến cái chết lặng lẽ của Lưu Đồng, từ
ngôi nhà lẻ loi trên bình nguyên đến cái đêm dựng trại dưới trời sao, mối liên
hệ ràng rịt giữa thiên nhiên và con người luôn hiện ra, như một mặt hồ cho lòng
ta tĩnh lặng, và như một tấm gương để ta soi lại chính mình.
Bài đăng trên Sinh viên Việt Nam bộ mới – số 44