Trong thế giới kiếm hiệp, có
hai quan ải đã đi vào huyền thoại. Thứ nhất là Nhạn Môn, nơi khởi đầu và kết
thúc một đời hào kiệt của Kiều Phong. Thứ hai là Long Môn, nguồn cảm hứng dồi
dào của điện ảnh võ hiệp nửa thế kỷ qua. Nếu Long Môn khách sạn 1967 đặc sắc vì tính nguyên bản (original), Long Môn phi giáp 2011 hấp dẫn vì sự đột
phá trong kỹ xảo, thì Tân Long Môn khách
sạn 1992 lại mê người vì hội tụ những gì tinh túy nhất của phim võ hiệp
Hong Kong thập niên 80 và 90.
Chưa xem phim, chỉ cần nhìn
thông tin, đã thấy Tân Long Môn có bảy
cái tuyệt. Từ Khắc sản xuất là cái tuyệt thứ nhất. Câu chuyện kinh điển minh
tranh ám đấu ở một khách điếm vùng quan ngoại là cái tuyệt thứ hai. Trình Tiểu
Đông chỉ đạo võ thuật là cái tuyệt thứ ba. Huỳnh Nhạc Thái (chín lần đoạt giải
quay phim của Hong Kong) đứng sau ống kính là cái tuyệt thứ tư. Lâm Thanh Hà (vai
Khưu Mạc Ngôn), Lương Gia Huy (Châu Hoài Ân), Trương Mạn Ngọc (Kim Tương Ngọc) chính
là tam tuyệt còn lại. Một cơ duyên như thế, có thể nói là vô cùng hiếm gặp, và
Từ Khắc đã không bỏ lỡ nó: cuộc kỳ ngộ Long Môn, dưới bàn tay ông, đã trở thành
kinh điển. Kinh điển đến nỗi ngày 24 tháng 2 mới đây, bản phục dựng
(remastered) của bộ phim đã tái xuất trên màn ảnh rộng, sau hai mươi năm danh động
giang hồ.
Cô nhi của Thượng thư Dương Vũ
Hiên được nữ hiệp Khưu Mạc Ngôn bảo hộ khỏi sự truy sát của Đông xưởng (KGB của
nhà Minh) tìm đến Long Môn khách sạn, điểm hẹn với Châu Hoài An, ái tướng của
Dương thượng thư. Đây hóa ra là một hắc điếm với món đặc sản bánh bao nhân thịt
người. Châu, Khưu vừa phải đương đầu với nha trảo của Đông xưởng giả trang làm
khách trọ, vừa phải đối mặt với cô chủ quán tinh quái Kim Tương Ngọc để tìm được
bí đạo dẫn ra ngoài quan ải, trong khi đại quân do đích thân Đốc xưởng Tào Thiếu
Khâm (Chân Tử Đan) truy đuổi đang tới gần…
Cái đẹp ở Tân Long môn đến trước hết từ sự xuất sắc của ba diễn viên chính.
Chỉ riêng diễn xuất của ba người họ thôi đã dư sức giành cho Tân Long môn một vị trí trang trọng
trong dòng phim kiếm hiệp. Nhân vật của Lương Gia Huy vừa có vẻ chính đính của
một hiệp khách, vừa có nét phong lưu của một lãng tử, nét phong lưu tự nhiên thuộc
về khí chất từng khiến Lương được Annaud chọn đóng Người tình. Trong khi đó, Trương Mạn Ngọc khiến ta không khỏi ngỡ
ngàng khi vào vai đào lẳng quá ngọt. Kim Tương Ngọc của cô gai góc, lão luyện
giang hồ, đẹp mặn mà, và rất đỗi lẳng lơ – một Thị Hến có gai ở miền sa mạc.
Cũng dễ hiểu thôi, bởi có thế mới trụ vững được ở Long Môn, mới có thể ung dung
đùa bỡn cả đạo tặc lẫn quan binh. Nhưng nàng Mẫu dạ xoa ấy cũng chính là một cô
gái hào hiệp với con mắt xanh của một kẻ đa tình.
Vượt lên cả hai người họ là mỹ
nhân cổ trang trăm năm có một của Hong Kong: Lâm Thanh Hà. Đây không phải lần đầu
mà cũng không phải lần cuối Lâm đóng vai phản xuyến (nữ cải nam trang), song có
lẽ đây là vai diễn đẹp nhất của nàng, từ tạo hình đến diễn xuất, từ thần thái đến
tính cách, khiến Châu Tấn trong Long Môn
phi giáp cố gắng đến mấy cũng phải cam bái hạ phong. Từ Khắc vốn rất giỏi tạo
hình nhân vật, và bộ trang phục nam nhi đen viền trắng với chiếc nón rộng vành
đẫm chất giang hồ của Khưu Mạc Ngôn đã trở thành kinh điển, nhất là khi dưới
vành nón còn thấp thoáng hàng lông mày liễu kiếm và đôi mắt sắc như dao của
Lâm.
Ba vai diễn đã tốt, nhưng mối
giao cảm giữa họ lại càng đặc biệt. Khưu và Châu hiển nhiên là “cố nhân”, có điều
tình cảnh hung hiểm khiến họ chỉ có thể kín đáo nhìn nhau, giấu niềm vui vào
nơi khóe mắt và thay lời nói bằng những cử chỉ âm thầm. Kim lăn lộn giang hồ,
loại người nào cũng đã thấy qua, nên vừa gặp Châu lập tức dành biệt nhãn cho kẻ
anh hùng. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là sự kình địch giữa Khưu với Kim. Một người
là hiệp nữ, một người là lão bản nương; bên trầm lặng kín đáo, bên sắc bén lả
lơi. Họ vừa “tranh giành” Châu Hoài An, vừa có cảm tình với nhau, một thứ tình nửa
“đồng tính” nửa “chị em” rất Từ Khắc – như Tào Vân và Bạch Nữu trong Đao mã đán, hay chính Lăng Nhạn Thu với
Tố Huệ Dung trong Long Môn phi giáp vừa
ra mắt. Nếu có một thứ đàn ông thích xem nhất thì đó hẳn sẽ là cảnh chị em lột
quần áo của nhau – và Từ đã mang đến cho chúng ta điều đó.
Xem phim của Từ cũng giống như
xem một màn tung hứng với đủ mọi thành tố và thể loại điện ảnh – căng thẳng đấy
rồi lại lố lăng đấy, hài hước đấy rồi bi tráng đấy, chậm rãi đấy mà cũng dồn dập
ngay đấy. Tất cả dường như cứ náo loạn hết cả lên, nhưng Tân Long Môn kỳ thực lại rất chặt chẽ và có lớp lang, vừa giàu tính
giải trí vừa đầy xúc cảm. Kiến trúc của khách sạn – tầng này nhìn được tầng
kia, phòng này nghe được phòng kia, có hầm kín, có bí đạo, luôn luôn có ánh
sáng từ nơi khác lọt vào… càng làm tăng tính phức tạp, đa chiều, đa lớp của câu
chuyện. Ở đây, tuyệt kỹ của Từ là một thứ vô
chiêu, tổng hợp rất nhiều chiêu thức của các môn phái, diễn biến hối hả và quấn
quýt lấy nhau trong một cảm quan điện ảnh rất riêng, rất dị, và rất Từ.
Từ luôn bị ám ảnh với sa mạc, bởi
không gian khắc nghiệt ấy là cái phông nền tốt nhất cho nhân vật tung hoành. Từ
Đao tới Tân Long Môn, từ Thất kiếm
tới Phi giáp đều lấy bối cảnh sa mạc.
Xét cho cùng, Từ chính là Sergio Leone của Hong Kong: Long Môn khách sạn há chẳng
phải một saloon (quán rượu) miền Viễn Tây; bọn giang hồ thảo mãng thì có khác
gì những gã cao bồi bắn chậm thì chết ở nước Mỹ thời nội chiến? Bao nhiêu đấu
tranh, bao nhiêu sinh tử, bao nhiêu hài hước, bao nhiêu quan hoài đều được Từ
“nhồi nhét” căng đầy và chật cứng trong một Long Môn nhỏ bé, dưới vòm trời đại
mạc mênh mang. Và sa mạc qua ống kính Huỳnh Nhạc Thái đã đem lại những khuôn
hình nghẹt thở đến nỗi Sergio nếu còn sống chắc cũng giơ ngón tay tán thưởng.
Có những thời khắc không gian hùng vĩ như chực nuốt chửng con người, nhưng cũng
có những giây phút nỗi lòng nhân gian như hòa lẫn trong nỗi sầu sa mạc. “Say
khướt khêu đèn xem kiếm, mộng về kèn rúc liên thanh,” – đôi dòng đoản cú của
Tân Khí Tật khắc trên cây địch của Khưu Mạc Ngôn chính là một nỗi sầu như thế.
Và tất cả kết thúc, trong một cái
kết vừa xẻ thịt lóc xương vừa bi tráng mà chỉ Từ mới nghĩ ra nổi, cũng chỉ có Từ
làm nổi thành phim. Bao dồn nén bùng nổ thành một trường sát sinh và huyết chiến,
như một giọt mực thật đậm và đầy cảm thán, đặt dấu chấm hết cho bài thơ đại mạc
của riêng ông.
Bài đăng trên Thể thao Văn hóa Đàn ông số tháng 4/2012