Hai
nghìn không trăm lẻ bốn có lẽ là một năm không thể nào quên với những người yêu
điện ảnh siêu thực. Đây là năm của Eternal
Sunshine of the Spotless Mind. Năm của ánh dương vĩnh cửu trong tâm hồn vô
nhiễm. Năm của Michel Gondry và Charlie Kaufman, hai đồng chủ nhân của tượng
vàng Oscar dành cho kịch bản xuất sắc nhất.
Được
tôn vinh vì sự táo bạo và phá cách trong kịch bản cũng như thủ pháp thể hiện, Eternal Sunshine đánh dấu sự thăng hoa
trong lần hội ngộ thứ hai giữa Gondry, đạo diễn tài hoa người Pháp, và Kaufman,
một trong những ngòi bút biên kịch độc đáo bậc nhất của Hollywood.
Xem
Eternal Sunshine, khán giả dễ dàng nhận
thấy ở Michel lẫn Charlie hai cá tính mạnh mẽ và hai khối óc với khả năng sáng
tạo bất tận; và vẻ đẹp huyền ảo của bộ phim chính là thành quả sự hợp tác giữa
họ. Nhưng, cũng từ hai cá tính, hai suối nguồn sáng tạo ấy, một câu hỏi khác
lại được đặt ra: Liệu có bao giờ chính sự hợp tác này lại đã kìm nén ít nhiều
cái tôi của họ? Và Eternal Sunshine of
the Spotless Mind, dẫu tuyệt vời đến mấy, lại cũng là một sự thỏa hiệp giữa
hai tài năng, hai tính cách?
Hai
năm sau Eternal Sunshine, Gondry tự
mình viết kịch bản và đạo diễn bộ phim truyện thứ ba, Science of Sleep (2006). Cùng lúc đó, Kaufman ấp ủ giấc mơ đạo diễn
bộ phim đầu tay sau nhiều năm cầm bút. Năm 2008, Synecdoche, New York
ra đời.
Câu
trả lời cho hai câu hỏi kia, nếu có, hẳn sẽ phải hiện diện trong hai bộ phim
này, khi công thức Gondry + Kaufman được thay thế bằng 100% Gondry và 100%
Kaufman: nếu có gì Gondry hơn Eternal
Sunshine thì đó hẳn sẽ là Science of
Sleep, và nếu có gì Kaufman hơn Spotless
Mind thì đó hẳn phải là Synecdoche,
New York.
NHỚ
Trước
khi đến với giấc mơ của Gondry (tên tiếng Pháp: La Science des Rêves – Mộng học) và sân khấu của Kaufman (Synecdoche, New York là câu chuyện về một đạo diễn
kịch), ta hãy dành chút thời gian về lại năm 2004 với ánh nắng bất tận của Joel
và Clementine.
Dù
Eternal Sunshine đã là lần cộng tác
thứ hai giữa Gondry và Kaufman, nhưng vẫn thật khó để hình dung ra họ như một
cặp bài trùng. Trước khi sát cánh với Kaufman lần thứ nhất năm 2002 trong Human Nature, Gondry chủ yếu dàn dựng video
ca nhạc và phim quảng cáo. Còn Kaufman tới trước 2004 đã kịp xác lập vị thế của
mình ở Hollywood với Being John Malkovich
và Adaption, cả hai đều gây ấn tượng
mạnh mẽ về chiều sâu tâm lý và triết học. Một đại diện của pop culture và một đại
diện của điện ảnh/kịch nghệ hàn lâm? Ngạc nhiên thay, sự kết hợp tưởng như bất
khả ấy lại rất thành công. Gondry được coi là một trong những nhà làm phim tiên
phong trong việc áp dụng thủ pháp của video ca nhạc vào điện ảnh, và lối xử lý hình
ảnh biến ảo của anh hóa ra lại là một sự bổ sung tuyệt vời cho cốt truyện siêu
thực của Kaufman.
Xét
cho công bằng, Eternal Sunshine of the Spotless Mind không quá khó xem. Câu chuyện dù phi truyền thống và rất sáng
tạo về mặt ý tưởng nhưng không quá phức tạp hay khó nắm bắt, và thực tế là phim
đã chiếm được cảm tình của cả người xem lẫn giới phê bình. Phần khó thuộc về những
người làm phim hơn là khán giả: đối tượng chủ đạo của phim không phải Joel,
cũng chẳng phải Clementine, mà là Ký Ức – một khái niệm gần gụi mà xa xôi, rõ
ràng mà trừu tượng. Thách thức đặt ra cho Gondry và Kaufman là làm sao để tái
hiện Ký Ức bằng ngôn ngữ điện ảnh, nghĩa là khắc họa một cách chân thực và sáng
tạo nhất vô vàn sắc thái của nó: rực rỡ và tăm tối, sống động và nhạt nhòa…
đồng thời lại phải dệt nó một cách
liền lạc vào câu chuyện của hiện thực.
Nhìn
tổng thể, Eternal Sunshine khá hoàn hảo,
và có không ít điều đáng nói. Người ta có thể ngợi khen sự uyển chuyển của cấu
trúc thời gian phi tuyến tính, hân thưởng sự đan xen phức tạp nhưng mượt mà giữa
hiện thực và ký ức, cũng có thể tán dương thứ ngôn ngữ đơn giản, chân xác nhưng
vẫn rất dị của nhân vật, hay ca tụng
màn trình diễn nhạy cảm và ngẫu hứng của cặp đôi Jim Carrey, Kate Winslet. Nói
cách khác, Eternal Sunshine of the
Spotless Mind hội tụ gần như đầy đủ những yếu tố để trở thành một bộ phim kinh
điển từ khi mới ra đời (instant classic). Nhưng, yếu tố bao trùm tất cả, và nhận
được sự đồng thuận gần như tuyệt đối của giới phê bình vẫn là kịch bản: trong
số gần bốn mươi giải thưởng, có đến phân nửa là dành cho kịch bản.
Giải
Oscar của Eternal Sunshine of the Spotless Mind được trao cho ba
người. Trong đó chỉ mình Kaufman chấp bút viết kịch bản (screenplay), Gondry và
Pierre Bismuth góp phần xây dựng câu chuyện (story). Kaufman nói: “Thông thường
biên kịch viết xong kịch bản là biến mất. Tôi thì không thế. Tôi muốn tham gia
từ đầu đến cuối. Gondry hiểu, và tôn trọng điều đó.” Rõ ràng là Kaufman không
đời nào phó mặc đứa con tinh thần của mình cho bàn tay đạo diễn, dù đó là đối
tác ăn ý của ông ở Human Nature. Dấu
ấn Kaufman được thể hiện trong từng chi tiết – từ tên phim là một câu trong bài
thơ của Alexander Pope mà ông yêu thích và đã hơn một lần sử dụng (ở Being John Malkovich, bài thơ Eloise and Abelard: A Love Story là tên
vở kịch rối của nhân vật Craig), đến những tình tiết quái dị tưởng chừng như được
ông “trục vớt” lên từ hố thẳm tâm thức của con người (để bảo vệ ký ức về Clementine,
Joel giấu cô vào những chốn sâu kín nhất của lòng mình: những nỗi hổ thẹn, nhục
nhã anh từng trải qua: cậu bé Joel bị bạn bè bắt nạt, hay cậu thiếu niên Joel thủ
dâm bị mẹ bắt gặp!!!), tới những câu thoại tự nhiên, dí dỏm, nhưng cũng không
kém phần quặc kỳ (quirky)…
Hiển
nhiên là suốt một trăm linh tám phút, Kaufman chưa một lần buông lỏng sự kiểm
soát của mình đối với bộ phim, và có một sự đồng thuận vô hình rằng Eternal Sunshine of the Spotless Mind
rất Kaufmanesque. Nhận định này tất nhiên không sai; có điều đa số dường như
quá choáng ngợp với cái độc đáo Kaufman mà quên rằng, sau hết thảy mọi điều, Eternal Sunshine vẫn là câu chuyện về Nhớ
và Quên, về nỗi sợ sẽ quên và niềm đau được nhớ. Bởi thế cho nên, điều cốt lõi quyết
định thành công của bộ phim có lẽ
không phải là diễn xuất (dù diễn xuất của Jim và Kate không chê vào đâu được),
cũng không chỉ ở kịch bản (dù kịch bản đoạt vô số giải thưởng), mà còn ở cách biểu
đạt Ký Ức bằng hình ảnh (visualization of memory). Và đó là biệt tài của Gondry.
Xem
Eternal Sunshine, người ta luôn thấy
phảng phất trong cách thể hiện có chút gì hài hước gần như thơ trẻ. Bất chấp
tính viễn tưởng của bộ phim, Gondry ít khi sử dụng thứ kỹ xảo CGI hoành tráng
đang là mốt ở Hollywood.
Trái lại, anh tin tưởng vào sức biểu cảm mãnh liệt của những thủ pháp đơn giản,
thậm chí thô sơ – một niềm tin “phản phác hoàn chân.” Cũng như những món hàng
thủ công, sản phẩm của anh, bởi vậy, rất giàu tính riêng tư. Nếu Kaufman chơi
cùng cấu trúc kịch bản thì Gondry chơi cùng hình ảnh, và anh có vô số cách để
minh họa Ký Ức và sự hủy hoại triệt để của nó. Đó có thể là một thủ pháp truyền
thống: từ từ làm tan biến sự vật để thể hiện ký ức đang tiêu biến; một hiệu ứng
kín đáo mà đơn giản: làm mất màu ở hậu cảnh bằng cách sơn/bọc trắng những cuốn
sách để ám thị sự phai nhạt của kỷ niệm; một kỹ xảo lộ liễu nhưng vẫn đặc biệt gây sốc: bịt mặt nhân vật bằng tấm mặt
nạ không đường nét để ám chỉ họ đã bị lãng quên.
Nếu
như những hình ảnh về sự tan rã của hồi ức (ngôi nhà trên bãi biển, chiếc xe ô
tô…) gieo vào lòng khán giả một ấn tượng thị giác mãnh liệt, buộc họ chia sẻ
nỗi sợ lãng quên của Joel, thì những chi tiết ngộ nghĩnh rất Gondry khi Joel
lẩn trốn trong ký ức tuổi thơ lại mang đến cho ta một thứ dư vị ngọt ngào khó
tả, dù đó là Joel-cậu-bé-dầm-mưa hay Joel-bé-con trốn dưới gầm bàn làm nũng
Clementine. Sự hoán vị giữa Joel trưởng thành và Joel nhóc con không chỉ là sự
hòa trộn giữa hồi ức và hiện thực, nó còn là ẩn dụ về sự tồn tại vĩnh cửu của
ký ức tuổi thơ trong tiềm thức con người: Joel không chỉ nhớ lại mà còn “sống
lại” những kỷ niệm ấy. Đó chính là câu trả lời cho niềm băn khoăn của Stevie
Nicks khi sáng tác Landslide: “Can
the child within my heart rise above?” Gondry đã trả lời cô: Có chứ. Từ ký ức.
MƠ
Hai
năm sau thành công của Eternal Sunshine
of the Spotless Mind, Gondry bắt tay làm bộ phim thứ ba, Science of Sleep, mà không có sự góp mặt
của Kaufman. Rất khó nói Gondry khi ấy nghĩ gì, nhưng hẳn là những ca ngợi giới
phê bình dành cho người bạn biên kịch, dù không khiến anh ghen tị, cũng đã gây
ra ít nhiều sức ép. Âu cũng là điều dễ hiểu, bởi nói cho cùng thì Eternal Sunshine vẫn là phim Mỹ (bối
cảnh Mỹ, kịch bản Mỹ, diễn viên Mỹ-Anh, do Universal phân phối), và Gondry là nhân
tố Pháp duy nhất trong phim. Với truyền thông Mỹ, Charlie Kaufman mới là người
cha thực thụ của Eternal Sunshine.
Science of Sleep, trong chừng mực nào đó, có
thể coi là lần trở về nước Pháp của Gondry. Sau hai lần thử sức ở Hollywood, đây là bộ phim đầu
tay của anh trên đất Pháp. Và quả thực, La
Science des Rêves mang trong mình nét trong trẻo rất Pháp từng được
Jean-Pierre Jeunet sử dụng để làm say lòng khán giả toàn cầu năm năm về trước. Cũng
như Amélie Poulain, Stéphane Miroux là hoàng đế tại vương quốc của riêng mình –
vương quốc của Giấc Mơ. Và vì đó là thế giới của những điều không tồn tại trong
hiện thực, Gondry mặc sức tung hoành với trí tưởng tượng không biên giới của
mình. Nếu ai đã từng xem clip bài hát Human
Behaviour của Björk thì tới Science
of Sleep chắc sẽ tự hỏi: Gondry đang áp dụng thủ pháp của video ca nhạc vào
phim, hay đang biến bộ phim thành một clip nhạc kéo dài với khá nhiều hội
thoại? Có lẽ là cả hai. Science of Sleep
có cái tung tẩy kỳ lạ hiếm thấy ở điện ảnh ngày nay, và sức sáng tạo hồn nhiên
của nó không ngừng khiến ta phải ngả mũ vì kinh ngạc. Nhưng cũng chính vì đẩy
trí tưởng tượng đến cực hạn mà Science of
Sleep khó xem hơn, bởi khán giả cũng cần một trí tưởng tượng ít nhiều bay
bổng để có thể “cảm ứng” với vẻ đẹp kỳ dị trong thế giới của Stéphane.
Đề
tài của Science of Sleep rất gần với Eternal Sunshine of the Spotless Mind: từ ký ức đến giấc mơ là một khoảng cách không
hề xa, thậm chí có ý kiến cho rằng Gondry tiếp tục bị ảnh hưởng của Kaufman khi
lựa chọn một đối tượng giàu tính triết học và khoa học như vậy làm đề tài khai
thác. Kỳ thực, Science of Sleep không
hề triết như cái tên của nó gợi ra
cho khán giả, nếu không muốn nói là hoàn toàn tương phản: giản dị, hồn nhiên,
và ngộ nghĩnh. So với Eternal Sunshine,
triết lý hình ảnh của Gondry được đẩy lên thêm một bậc về hướng của giản đơn. Nếu
như ở Eternal Sunshine, ký ức, hay
nói cách khác là cựu-hiện-thực, được tái tạo bằng các chất liệu tương đương về tính thật – con người
thật, nhà cửa thật, xe cộ thật, thì sang đến Science of Sleep, giấc mơ của Stéphane được đặc tả bằng các chất
liệu bắt chước hiện thực: bìa các
tông, rối vải, cellophane… Rõ ràng, những chất liệu ấy ít thật hơn, nó ở một cấp độ dưới hiện thực, nhưng hiệu ứng của nó
thậm chí còn mãnh liệt hơn hiện thực. Có hai lý do: thứ nhất, khi kỹ xảo hiện
đại ngự trị màn bạc thì những thước phim của Gondry lại lấy một hình thái hoạt
hình giản dị nhất (stop-motion animation) làm chủ đạo, chính cái đơn sơ ấy đã
đem đến cho Science of Sleep một vẻ
chân thực không cưỡng nổi, chân thực hơn cả hiện thực; thứ hai, những hình ảnh,
những đạo cụ đồ chơi ấy khiến ta liên
tưởng đến trẻ thơ. Mà trẻ thơ thì thiện lương và thuần khiết. Chẳng hạn, khi người
lớn vuốt ve một con ngựa thật và bảo: tôi yêu nó lắm, có người sẽ tin, có người
sẽ không tin. Nhưng nếu một cậu bé ôm con ngựa đồ chơi bằng vải và nói ra điều đó,
thì đấy dường như là một sự thật tất nhiên, tuyệt đối, miễn bàn cãi. Gondry,
hơn ai hết ý thức rất rõ điều này, và đã thổi sức mạnh ấy vào Science of Sleep bằng một trí tưởng tượng
điên rồ và tiệm cận với hoang đường.
Stéphane
lẩn tránh hiện thực bằng cách trốn vào giấc mơ; và Gondry, bằng bìa các tông,
cellophane, vải vụn, đã biến thế giới trong mơ của Stéphane thành một
phản-hiện-thực bay bổng, lãng mạn, phù động. Đối với nhân vật, thế giới ấy là
một lựa chọn khác, có thể thay thế
hiện thực, chối bỏ hiện thực, đồng thời hòa trộn vào hiện thực. Stéphane dường
như chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực của mình trong phản-hiện-thực: đó
là thiên đường của anh, thế ngoại đào nguyên của anh, nơi anh và Stéphanie có
thể cưỡi Golden the Pony Boy bay giữa những đám mây cellophane trắng muốt. Về
phía người xem, thế giới của Stéphane (hay đúng ra, thế giới của Gondry) không những
kích thích trí tưởng tượng của họ, mà còn thách thức tính cả chân xác và giá
trị của thế giới thực nơi họ đang tồn tại. Bên cạnh một thế giới nơi một nốt
nhạc có sức mạnh diệu kỳ giữ cho những đám mây cellophane lơ lửng giữa không
trung, bên cạnh một thế giới nơi tâm hồn con người là một studio ca nhạc bằng
bìa cứng và đôi mắt là hai ô cửa sổ (theo đúng nghĩa đen của từ “cửa sổ”!) nhìn
ra thế gian và vọng về kỷ niệm, bên cạnh thế giới ấy, thế giới thực của chúng
ta bỗng trở nên tầm thường và xấu xí.
Thế
giới thực Gondry mang đến cho chúng ta xuất phát từ một điểm nhìn rất lạ: là
phim Pháp, với diễn viên Pháp (Gael García Bernal là người Mexico nhưng tiếng
Pháp rất tốt), nhưng bộ phim đồng thời sử dụng ba ngôn ngữ Anh, Pháp, Tây Ban
Nha – một chỉ dấu về thế giới trong thời đại toàn cầu hóa. Chúng ta thấy rất rõ
những yếu tố toàn cầu hóa được Gondry đưa vào bộ phim: Stéphane TV là một phiên bản đồ chơi của MTV, và cách nhìn thế giới của Stéphane qua bộ lịch “thảm họa học” bị
đồng nghiệp của anh coi là lập dị kỳ thực lại là cái nhìn chính xác nhất về thế
giới ngày nay, đầy rẫy nguy cơ và khủng hoảng… Ở thế giới thực, Stéphane gặp
rất nhiều khó khăn trong giao tiếp với bạn bè và đồng nghiệp, nhưng những rào
cản về ngôn ngữ hay nhân sinh quan đã hoàn toàn tiêu biến khi anh bước vào thế
giới của giấc mơ. Sự hoang mang và lạc lõng trong cuộc sống hiện đại không chỉ
là vấn đề của Stéphane, một chàng trai sinh ra ở Pháp, lớn lên ở Mexico, và
nghe Duke Ellington, nó là vấn đề của tất cả chúng ta trong kỷ nguyên toàn cầu
hóa. Bằng Science of Sleep, Gondry
đặt ra cho khán giả câu hỏi: phải chăng Stéphane là người điên khi không phân
biệt được giữa mộng và thực, hay chính chúng ta mới là những kẻ không bình
thường khi mải mê với đời thực mà từ bỏ đi phần đẹp đẽ nhất, thuần khiết nhất trong
tâm hồn: mơ mộng.
SÂN KHẤU
Nếu
Science of Sleep rất Pháp thì Synecdoche, New York
rất Mỹ, Mỹ ngay từ cái tên: không phải Washington,
D.C. mà chính New York
mới là đại diện đích thực cho nước Mỹ. Nơi gia đình Cotard cư trú trong phim là
Schenectady, New York. Sự đồng âm này, cùng với hàm nghĩa
của Synecdoche (hoán dụ), là chỉ dấu
rõ ràng nhất Kaufman gửi đến khán giả: đó là câu chuyện về một giả-lập-hiện-thực
(Synecdoche) trong lòng hiện thực (New York).
Và thế giới ảo ấy lại là của những con người thật: đó là vở kịch khổng lồ của
Caden Cotard, với tham vọng tái tạo hiện thực trên sân khấu. Bi kịch thay, giấc
mơ của Caden lại là cái bẫy của những vòng lặp bất tận: trong kịch là kịch và
trong kịch lại có kịch, rồi cứ thế… Trong khi Gondry cung cấp lối thoát cho
hiện thực, Kaufman dập tắt triệt để mọi ảo tưởng về lối thoát: Cotard, với nguồn
tài chính và nhân lực vô hạn, vắt kiệt đời mình trong nỗ lực vô vọng là viết
lại đời mình, chỉ để nhận ra rằng điều ấy là không thể.
Từ
Synecdoche nhìn sang Science of Sleep, sự khác biệt giữa
Kaufman và Gondry bỗng trở nên hiển nhiên. Đây không phải là sự khác biệt về
quốc tịch, cũng không phải là khoảng cách giữa một Michel lạc quan và một
Charlie yếm thế, mà chỉ đơn giản là thế mạnh của mỗi người. Sở trường của
Gondry là hình ảnh, còn biệt tài của Kaufman là ngôn ngữ và câu chuyện. Thiếu
đi sức mạnh hình ảnh, Science of Sleep,
với kịch bản đơn giản và tự do, sẽ trở nên lỏng lẻo và kém hấp dẫn. Vắng một câu
chuyện sâu thẳm với những lời thoại để đời (I breath your name in every
exhalation - Tôi thở tên em trong mỗi lần hô hấp) và những tình tiết quái dị, điều
đọng lại ở Synecdoche, New York sẽ chỉ là những khuôn hình u ám,
và chỉ thế mà thôi.
May
mắn thay, đã không như thế.
Câu
chuyện của Kaufman và Gondry có thể khác nhau ở đích đến, nhưng cả hai đều có
chung điểm khởi đầu: nếu Stéphane lẫn lộn giữa thực và ảo thì Caden lẫn lộn
giữa sống và chết (hội chứng Cotard là ảo giác rằng mình đã chết). Giống như
Stéphane, Caden bị cô lập trong thế giới thực; những mối liên hệ xã hội– gia
đình, bè bạn, tình yêu – lần lượt tan rã. Nếu Stéphane vùng vẫy trong mơ thì Caden
đơn độc tiến hành một cuộc thập tự chinh trên chiến-trường-sân-khấu để giành
quyền được sống. Cũng như Science of
Sleep, Synecdoche, New York khiêu chiến nhân sinh quan của
con người, chỉ có điều cú đòn của Kaufman không nhẹ nhàng mà bạo liệt, không
hồn nhiên mà tàn nhẫn, và không dễ gì đón nhận với khán giả. Bởi, sau hết thảy,
Synecdoche, New York là câu chuyện về sự bình thường
đến bất thường và tầm thường đến dị thường của kiếp người. Khác với Gondry, câu
chuyện của Kaufman rất ít ngọt ngào, nhưng rất đỗi bi thương, và rất nhiều cay
đắng…
Bằng
kịch bản của mình, Kaufman ném người xem vào một vòng đu quay cao tốc. Câu
chuyện khởi đầu một cách bình thường đến mức khó có thể bình thường hơn. Một
buổi sáng bình thường của một gia đình bình thường, và thấp thoáng đâu đó là
những sự bất thường. Một ông chồng việc đầu tiên khi mở tờ báo sáng ra là đọc
mục cáo phó. Một cô bé đại tiện ra màu xanh lá cây. Mật độ và cường độ của sự bất
thường trong đối thoại và tình tiết cứ thế tăng dần như đu quay tăng tốc. Để
khi kết thúc vòng quay cuối, khán giả bước ra, đầu óc hoặc quay cuồng lảo đảo,
hoặc ngây ngất như mê như say.
Bởi
thế giới của Synecdoche, New York chưa bao
giờ tỉnh. Adele thổ lộ rằng cô hay huyễn hoặc rằng Caden chết. Cô nhầm. Điều họ
huyễn hoặc, là mình đang sống. Từ khi dòng chữ 7:44 xuất hiện trên màn ảnh,
Caden đã bắt đầu cuộc chết của mình. Đó là cuộc chết của cả thể xác và tâm hồn.
Gia đình. Tình yêu. Nghệ thuật. Thời gian. Và của cảm giác rằng mình đang sống.
Lẻ loi, lạc loài, kiệt quệ, Caden vẫn không ngừng tranh đấu. Giải thưởng
MacArthur là cơ hội cho ông viết lại đời mình (trong khi đó, ở bên kia Đại Tây
Dương, năm lên sáu, Stéphane cũng bắt đầu hành trình của những giấc mơ).
Cuộc chiến không cân sức trên mỗi tầng sân
khấu cuộc đời ấy là điều đẹp đẽ nhất, đau đớn nhất của Synecdoche, New York.
Hơn ai hết, Caden ý thức rất rõ ràng về sự nhỏ bé và bất lực của kiếp người: I do my little job. And live my little life.
Eat my little meals. Miss my little kid and wife. Biết rằng mình rồi sẽ
chết. Tất cả rồi sẽ chết. Nhưng trước mỗi cú đánh của số phận, Caden đều kiên
cường đáp trả, từ chối chết đi một cách lặng lẽ, để rồi lặng lẽ chết đi, trong một
niềm mãn nguyện. Mỗi nỗ lực ấy, dù muộn màng, dù thơ ngây, dù khờ khạo, vẫn
khiến ta phải nghiêng mình.
Lọ
nước mắt, cây gậy, mái tóc giả… là sự kháng cự tuyệt vọng của Caden trước sự
tàn tạ của thể xác. Claire và Ariel là nỗ lực tái hiện bất thành Adele và Olive
– một mái ấm gia đình. Chiếc hộp màu hồng và lời “tự thú” nghẹn ngào bên giường
bệnh Olive là cố gắng vô vọng vãn hồi một tình cha con đã chết. Sân khấu khổng
lồ là sự ganh đua thất bại với những tác phẩm tiểu họa của Adele – không phải
Adele-người-vợ mà là Adele-đối-thủ-trong-nghệ-thuật. Kiệt tác mà Caden ôm ấp,
cái mộng tưởng tưởng chừng to tát là được lưu danh của người nghệ sĩ, thật ra,
lại là mong muốn giản đơn nhưng bất khả của một con người – được sống lại đời mình: “Tôi rốt cục sẽ trút mình vào
một điều gì đó.”
Còn
Hazel, là cuộc truy cầu bất tận một tình yêu.
Surreal và Sur-Real
Từ
Eternal Sunshine đến Science of Sleep, từ Spotless Mind đến Synecdoche, ta chợt nhận ra rằng, những khác biệt của Gondry và
Kaufman chỉ là nhỏ nhoi, nếu đặt bên cạnh những sự tương đồng giữa họ. Cho dù
cộng tác cùng nhau hay làm việc riêng rẽ, trong cả ba bộ phim ấy họ đều nói
chung một ngôn ngữ: ngôn ngữ của điện ảnh siêu thực (surrealism). Đó là một lựa
chọn có chủ đích của cả hai nhà làm phim, và lựa chọn này khởi nguồn từ một nỗi
niềm chung, ấy là nỗi băn khoăn và niềm ưu uất về hiện thực. Không phải ngẫu
nhiên mà ở cả ba bộ phim đều xuất hiện một thế giới thứ hai là đối trọng với
hiện thực: ở Eternal Sunshine là
cựu-hiện-thực của ký ức, Science of Sleep
là phản-hiện-thực của giấc mơ, còn Synecdoche,
New York
là giả-lập-hiện-thực của sân khấu. Bởi, sau cùng, hiện thực là điều luôn ám ảnh
họ. Ở Eternal Sunshine, hiện thực là
nỗi đau tình yêu tan vỡ của Joel và Clementine, ở Science of Sleep, hiện thực là sự lạc lõng và dễ tổn thương của
Stéphane, trong Synecdoche, New York, hiện thực, còn tàn nhẫn hơn
gấp bội, là sự vô nghĩa của kiếp người. Nỗi ám ảnh thường trực ấy luôn thôi
thúc họ vượt thoát, và để vượt lên trên hiện thực (sur-Real), hai kẻ tài hoa ấy
đã chọn chung một con đường: thay thế hiện thực bằng thế giới của riêng mình.
Con đường ấy có thể không biết sẽ đi về đâu, như tương lai của Joel và
Clementine, có thể sẽ rất nhiều dịu ngọt như trong vương quốc của Stéphane, mà
cũng có thể tối tăm và gai góc như sân khấu của Caden. Điều đó không quan
trọng; điều quan trọng là cả Michel, cả Charlie, cả nhân vật của họ, đều đã cố
gắng hết mình, đã tận tâm kiệt lực.
Bây
giờ nhìn lại, mối liên hệ Gondry-Kaufman trong Eternal Sunshine of the
Spotless Mind bỗng trở nên dễ hiểu. Họ chẳng cần thỏa hiệp, chẳng cần kìm
nén cái tôi, bởi như chính Kaufman từng thừa nhận, “lý do khiến Michel và tôi
tìm đến với nhau là sự tương đồng về ý tưởng.” Nếu Science of Sleep khá gần với Eternal
Sunshine thì Synecdoche cũng rất
gần với Bachelorette, một video clip
do Gondry đạo diễn. Bởi vậy, khó có thể nói là ai đã chịu ảnh hưởng của ai trong
cuộc chơi này. Có lẽ cả hai. Có lẽ không ai cả. Ở Eternal Sunshine, nỗi ưu uất và khát khao vượt thoát hiện thực (đồng
thời vẫn dũng cảm đối diện với hiện thực) vừa là chất xúc tác kéo họ lại gần
nhau, vừa là dung môi hòa trộn tài năng của họ. Câu chuyện của Kaufman và hình
ảnh của Gondry, đó là công thức mang lại thành công rực rỡ cho bộ phim. Cả Science of Sleep và Synecdoche, New York đều
khó lòng vươn tới sự trọn vẹn ấy, song điều đó không vì thế mà lấy đi chút gì giá
trị của chúng. Ngược lại, sự thuần khiết Gondry hay thuần khiết Kaufman của mỗi
tác phẩm lại chính là điều khẳng định vị thế của chúng cạnh người anh em chung
nửa dòng máu Eternal Sunshine. Một xuất
sắc trong sự kết hợp tự nhiên giữa hai tài năng, hai quý giá ở sự riêng tư
tuyệt đối, thậm chí cực đoan, của tâm hồn người nghệ sĩ.
Joel
và Clemetine sẽ tiếp tục với tình yêu.
Caden
đã “chết”.
Và
đâu đó trong mây, Stéphane vẫn tìm kiếm Stéphanie giữa cơn mê chiều ngơ ngẩn.
Bài đã in trong sách "Chơi cùng cấu trúc" - NXB Văn hóa Sài Gòn.