Mười năm không phải là quãng thời gian
quá dài với một đời người. Càng không phải là dài với một ngành công nghiệp như
điện ảnh. Nhưng điện ảnh mười năm qua quả thật đã rất nhiều vật đổi sao dời. Cả
trên thế giới. Lẫn ở Việt Nam. Mặc dù hơi sớm, nhưng bài viết này vẫn muốn nhân
dịp cuối năm cùng độc giả nhìn lại những đổi thay xảy ra trên, trước và cả phía
sau màn bạc một thập niên trở lại đây.
Siêu
anh hùng giành ngôi bá chủ
Thành công của X-men (2000) hay Spider-Man (2002) sớm báo hiệu một tương lai huy hoàng cho dòng
phim siêu anh hùng. Nhưng phải tới khi Disney mua lại Marvel Studios cuối 2009
thì điện ảnh-comic mới thật sự lên ngôi. Sau một thập niên, Disney đã gây dựng
nên một Vũ trụ Điện ảnh Marvel rộng lớn với 23 phim chiếu rạp và tổng doanh thu
22.6 tỉ USD, chưa kể các TV series. Có thể nói quãng đời niên thiếu của một đứa
trẻ sinh năm 2000 bắt đầu cùng Ironman
(2008) và kết thúc ở Avengers: Endgame
(2019). Dù muộn màng hơn và kém thành công hơn,, DC cũng đã kịp tạo ra một vũ
trụ của riêng mình với bảy bộ phim. Bên cạnh 30 gã khổng lồ này, những bộ phim
khác, kể cả Hollywood chứ chưa nói tới các nền điện ảnh khác, như những cậu bé
tí hon nếu xét về kinh phí, doanh thu lẫn độ phủ sóng truyền thông. Có thể nói
mười năm qua điện ảnh thế giới đã sống dưới cái bóng của comic, dù muốn hay
không. Chính sự thống trị tuyệt đối ấy đã làm một gương mặt lão làng như Martin
Scorsese phải chán ghét thốt lên rằng đấy không phải là điện ảnh, mà là một thứ
theme-park. Và dĩ nhiên, sẽ có rất
rất nhiều người không đồng ý với ông.
Streaming
lên ngôi
Với sự bùng nổ của
Internet băng thông rộng, DVD và thậm chí cả Bluray đã trở thành quá khứ. Xem
phim online đã trở thành xu thế. Năm 2007, Netflix bắt đầu thử nghiệm dịch vụ
streaming, và sau mười năm đã có 120 triệu người dùng tại hơn 180 quốc gia (trừ
Trung Quốc). Tất nhiên, không chỉ có mình Netflix. Những ông lớn trong làng
công nghệ đều có dịch vụ streaming của riêng mình: từ Apple iTunes của Apple đến
Google Play Movies & TV và Amazon Prime Video. Không chỉ hấp dẫn những đại
gia, thị trường streaming còn thu hút những công ty nhỏ hơn với thế mạnh là nội
dung nội địa – có thể kể tới Fim+, iflix hay FPT Play tại Việt Nam. Những những
con cá mập của làng streaming như Netflix không dừng lại ở chỗ chiếu phim của
người khác, họ còn tự sản xuất nội dung và đã trở thành những thế lực thực sự,
cạnh tranh quyết liệt với các studio truyền thống. Dù chỉ mới sản xuất original
series đầu tiên (House of Cards) năm
2013, đến 2018 ước tính trên
Netflix đã có 700 series tự sản xuất thuộc đủ thể loại, trong đó khoảng 80
series bản địa (không nói tiếng Anh). Chỉ riêng 2019, Netflix ra mắt
73 phim truyện – gấp bốn lần con
số cùng kỳ của Warner Bros.
Sự
giao thoa của truyền hình và điện ảnh
Một lần nữa, công nghệ lại đóng vai trò
then chốt trong xu thế này. Trước đây, khi ti vi chỉ có kích thước 14 inch và
phân giải SD, trải nghiệm khi xem phim tại nhà và ngoài rạp khác nhau một trời
một vực. Ngày nay, khi màn hình ti vi ngày càng lớn và phân giải 4K đã thành
chuẩn mực, khi máy chiếu và rạp hát tại gia không còn đắt đỏ, khoảng cách giữa
truyền hình và điện ảnh đang xích lại gần nhau. Nhà sản xuất sẵn sàng bỏ ra số
tiền lớn cho phim truyền hình. Mười năm bá chủ của series Game of Thrones là minh chứng rõ nét nhất, khi mỗi tập phim được đầu
tư 10 triệu USD – con số mà các bộ phim độc lập phải mơ ước. Không dừng ở kinh
phí hay trải nghiệm thị giác, chất điện ảnh trong phim truyền hình ngày càng đậm
nét, đến mức nếu ngẫu nhiên mở ti vi, ta khó mà đoán được mình đang xem là phim
chiếu rạp nay được phát trên truyền hình, hay là phim truyền hình thực sự. Đã
có bộ phim những bộ phim giành Oscar mà chỉ được phát hành hạn chế ngoài rạp,
còn đa số khán giả đều xem qua tivi như Roma của Netflix hồi năm ngoái, và có thể
là The Irishman của năm nay.
Tương
lai nào cho phim độc lập?
Khi nhìn lại một thập niên vừa qua, đây
là một câu hỏi rất khó trả lời. Năm 2009 Canon ra mắt 5D mark II, chiếc máy ảnh
full-frame có tính năng quay phim đầu tiên. Chưa bao giờ giấc mơ điện ảnh lại
trở nên gần gũi với các đạo diễn indie cả về mặt kỹ thuật lẫn kinh phí như thế (năm
2012, Dành cho tháng Sáu, phim indie
đầu tiên quay bằng 5D mark II của Việt Nam đã ra mắt khán giả). Cùng với phần cứng
giá phải chăng là những phần mềm như Adobe
Premiere Pro hay Final Cut Pro,
cho phép các nhà làm phim xử lý hậu kỳ với chi phí tối thiểu. Giải Oscar của Moonlight (2017) cũng là niềm hy vọng
cho giới làm phim độc lập, bởi nó chứng tỏ thành công không phải là bất khả với
ngân sách khiêm tốn 1,5 triệu USD (chưa bằng 30 giây quảng cáo trong Lễ trao giải của Viện Hàn lâm).
Dẫu công nghệ cho phép điện ảnh độc lập bảo
lưu tiếng nói của mình, tiếng nói của phim thương mại, nhất là những bom tấn, lại rền vang hơn bao giờ hết, lấn
át không thương tiếc những giọng nói nhỏ bé hơn. Trong khi số phòng chiếu ở Việt
Nam tăng từ gần 100 năm 2009 lên hơn 900 sau 10 năm, tiền đề để lần lượt Captain Marvel rồi Avengers: Endgame
lập kỷ lục phòng vé, thì rạp phim nghệ thuật duy nhất ở Hà Nội, Cinematheque,
đã nói lời vĩnh biệt với người yêu điện ảnh năm 2016, sau 12 năm hoạt động.
Trong một diễn biến khác, công nghệ
(vâng, lại là công nghệ) streaming đã mang lại cho phim độc lập một cơ hội chưa
từng có. Trước giờ, đến được với khán giả luôn là cuộc chiến tuyệt vọng của
phim độc lập, nhưng streaming đã khiến điều đó trở thành đơn giản. Nhờ Netflix,
một bộ phim hoạt hình kiểu I Lost My Body
trước đây chỉ có thể công chiếu ở các liên hoan phim như Annecy thì nay có thể
đến với hàng triệu người xem sau chỉ một ngày.
Một lục
địa nổi lên từ đáy biển
Hình ảnh như thể từ phim viễn tưởng này
có lẽ là ẩn dụ thích hợp nhất để miêu tả về sự trỗi dậy của thị trường Đại lục
mười năm qua. Từ chỗ đứng thứ tám thế giới năm 2007 về quy mô thị trường, Trung
Quốc chỉ mất năm năm để vượt mặt Nhật, chiếm vị trí thứ hai. Và với doanh thu
10 tỉ USD năm 2019 nước này được dự báo sẽ soán ngôi đầu của Bắc Mỹ chỉ trong
vài năm tới. Thực tế ấy ảnh hưởng sâu sắc tới mọi khía cạnh của ngành công nghiệp
celluloid – khi Trung Quốc vừa là khán giả vừa là nhà đầu tư, Hollywood không
thể không chiều chuộng họ. Do đã có một bài viết riêng khá dài về điện ảnh Đại lục
trên Tuổi Trẻ cuối tuần số ra ngày
20.10, xin được dừng ở đây, để chuyển sang điểm lại những dấu ấn lớn của điện ảnh
trong nước thời gian qua.
Điện ảnh của mọi nhà
Xét từ góc độ kinh
tế, mười năm qua thị trường trong nước phát triển mạnh mẽ không kém gì Trung Quốc,
chỉ là ở quy mô nhỏ hơn. Tốc độ tăng trưởng vũ bão và những kỷ lục doanh thu
phòng vé lần lượt bị phá đã nói lên điều đó. Mười lăm năm trước, cineplex là đặc
quyền chỉ của Hà Nội và Sài Gòn. Giờ đây, người dân các tỉnh cũng có thể thưởng
thức điện ảnh với chất lượng không thua gì thủ đô giàu đẹp. Một điểm độc đáo nữa
là sự bùng nổ của mô hình chung cư kết hợp với trung tâm thương mại khiến rạp
chiếu phim thực sự trở thành một tiện ích tại gia của nhiều gia đình, khi chỉ cần
đi xuống tầng dưới là gia chủ đã có thể xem bộ phim mình mong đợi. Thế nhưng, dẫu
điện ảnh đã trở thành một sản phẩm tiêu dùng thường nhật, truyền thông Việt vẫn
chưa hình thành được một cơ chế đánh giá chất lượng phim một cách quy củ. Đến
giờ, khán giả vẫn chưa biết phải tìm đến đâu để nhận được sự tư vấn đáng tin cậy
về chất lượng của một bộ phim. Nói cách khác, phê bình điện ảnh phục vụ đại
chúng vẫn hoàn toàn vắng bóng ở xứ sở này.
Sự cáo
chung của điện ảnh nhà nước
Nếu có gì đáng buồn mà cũng đáng vui nhất
suốt mười năm qua thì chắc hẳn đó là cái chết của Hãng phim truyện Việt Nam.
Đáng buồn thì rõ rồi. Nhưng sao lại đáng vui? Đáng vui vì nó đặt dấu chấm hết,
tuy rất tàn nhẫn và nhiều khuất tất, cho một nền điện ảnh bao cấp, làm phim theo
đơn đặt hàng và hoàn toàn không có rủi ro vì không phải lo lỗ vốn. VFS không chết
năm 2016 khi bị một con buôn đích thực là Vivaso mua lại, nó đã chết ngay từ
2010 khi bị bứt khỏi bầu sữa mẹ có tên là ngân sách nhà nước.
Bóng
ma kiểm duyệt
Điện ảnh nhà nước có thể đã chết đi,
nhưng bóng ma của nó vẫn dật dờ ám ảnh người làm nghề. Sau nhiều phấn khởi đầy
mơ mộng về một thời kỳ mới vừa mở ra
cho điện ảnh, sự kiện Bụi đời Chợ Lớn
bị cấm chiếu năm 2013 nhắc cho tất cả nhớ rằng lưỡi dao kiểm duyệt chưa lúc nào
không lơ lửng trên đầu họ. Và mới
đây thôi, sự kiện Ròm bị cấm dự Liên
hoan phim Busan càng củng cố sự thật đó: Censorship is here to stay! Scandal của
Everest – Người tuyết bé nhỏ, nếu có chút gì tích cực, thì đó là việc nó
phơi bày sự vô năng của một cơ chế lẽ ra nên được xếp xó từ rất lâu rồi.
Biên kịch, anh ở đâu?
Cùng với nó là sự
xuất hiện của một thế hệ đạo diễn/quay phim trẻ, giàu năng lực và được đào tạo
bài bản, trong nước có mà Việt kiều cũng có. Phim Việt bởi thế đã hết lâu rồi
những quê mùa ngây ngô về kỹ thuật. Nhưng điều cốt lõi nhất của điện ảnh – nghệ
thuật kể chuyện – thì vẫn là một khoảng trống chưa thể lấp đầy. Đa số các phim
thành công hoặc là remake từ phim Hàn (Em
là bà nội của anh, Tháng năm rực rỡ, Anh trai yêu quái) hoặc là chuyển thể từ
một tác phẩm văn học được yêu thích (mà thường là Nguyễn Nhật Ánh). Sau mười
năm, người yêu điện ảnh vẫn đang chờ đợi một câu chuyện xuất sắc và nguyên bản,
đủ sức lay động người xem đến tận đáy lòng, mà không cần đến mọi màu mè hoa dạng
của kỹ xảo, của marketing, và của cả những thủ thuật tạo scandal. Tiếc rằng ngày
đó vẫn chưa đến. Với điện ảnh Việt Nam.
Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 1/2020