Tuesday, August 27, 2019

Once upon a time in… Hollywood

 

Một cuộc tình chưa trải qua thử thách thì chưa thể gọi là tình yêu đích thực. Điều đó không chỉ đúng với tình yêu đôi lứa, mà còn đúng với tình yêu điện ảnh. Và đối với những người yêu (hoặc tự nhận là mình yêu) Quentin Tarantino, Once upon a time in… Hollywood (OUATIH) là một thử thách như thế.

Có những nhà phê bình nhận xét đây là tác phẩm “riêng tư nhất” trong chín bộ phim của Tarantino. Thật ra, phim của Tarantino có bao giờ là không “riêng tư.” Chẳng qua là cái riêng tư của ông chồng lấn ít hay nhiều với khẩu vị của đa số khán giả mà thôi. Trước khi làm phim cho người khác xem, QT luôn làm phim cho chính mình và cho tình yêu điện ảnh ấp ủ từ hồi ông còn là anh cho thuê băng ở Manhattan Beach. Cũng phải mở ngoặc rằng điện ảnh mà ông  yêu khác xa thứ điện ảnh hàn lâm quen thuộc – tức là đầy rẫy những phim hạng B hoặc genre movie, nếu không được tôn vinh nhờ những bộ phim đầy hoài niệm của ông thì hẳn đã chìm sâu vào quên lãng.

OUATIH, bởi thế, cũng như câu hát đầy khắc khoải của Joni Mitchell, Will you take me as I am?, là câu hỏi được QT, sau hai mươi bảy năm dọc ngang làng điện ảnh, đặt ra cho khán giả của mình: (phim) tôi thế đấy, người có yêu tôi không?

Và quả thực, bộ phim đã được Tarantino thực hiện theo một phong cách rất bất cần, nghĩa là không yêu giả dép bố về. Chỉ ông mới dám chiêu đãi khán giả bằng cả khuôn hình đặc tả hai bàn chân kiêu ngạo giẫm lên phim của Margot Robbie qua vai Sharon Tate, hình ảnh không khỏi làm ta bồi hồi nhớ đến ngón chân cái của Uma Thurman ở Kill Bill nhiều năm về trước. Và cũng chỉ có ông mới dám mang chính thần tượng của bao người (và của chính ông, với hình ảnh Beatrix Kiddo mặc bộ jumsuit màu vàng) ra để mà nhạo báng.

Từ khi OUATIH chưa ra mắt, truyền thông đã câu dẫn khán giả bằng cách hé lộ rằng bộ phim xoay quanh vụ thảm sát có thật của cô đào Sharon Tate, sự kiện chấn động California mùa thu 1969, được nhiều người coi là đánh dấu chấm hết cho kỷ nguyên kinh điển của Hollywood.

Câu chuyện tưởng vậy mà không phải vậy.

Tate có hiện diện và hiện diện một cách lung linh và lộng lẫy như thời đại mà nàng là đại diện. Nhưng hóa ra nàng chỉ là hàng xóm của Rick Dalton (Leonardo DiCaprio), một diễn viên Viễn Tây đã sang bên kia sườn dốc của sự nghiệp. Rick có anh bạn gần chưa bằng vợ nhưng thân hơn anh em, kiêm người đóng thế lẫn tài xế riêng tên gọi Cliff Booth (Brad Pitt). Trong khi Sharon có khuôn mặt thiên thần và cái cằm vuông khỏe khoắn gợi nhớ Ingrid Bergman nhấm nháp vị ngọt của một minh tinh đang lên thì Rick khổ sở vật lộn trong nỗi cay đắng của ngôi sao sắp xuống và tìm quên trong rượu. Khi không cởi trần, phô thân hình rám nắng và sửa ăngten cho bạn, Cliff bóp mũi Lý Tiểu Long (!), chạy xe rong trên đường phố Cali, cho gái non đi nhờ, và đá đít một lũ hippie.

Nhưng dù ai chính và ai phụ, thì lựa chọn của Tarantino cho từng vai diễn cũng như diễn xuất của mỗi người có thể nói là khỏi chê. DiCaprio mới mẻ bao nhiêu dưới hình hài một ngôi sao hết thời thì Pitt lại thoải mái bấy nhiêu trong vai gã diễn viên hạng hai tuyệt đối bằng lòng với nghề đóng thế. Robbie tỏa sáng bao nhiêu bằng cử chỉ và khí chất tự nhiên thì Julia Butters lại làm khán giả ngỡ ngàng bấy nhiêu khi hóa thân thành cô diễn viên nhỏ tuổi tôn sùng trường phái nhập vai (method acting). Và đó là chưa kể những vai rất phụ được đảm nhiệm bằng những khuôn mặt không thể chính hơn: Al Pacino, Dakota Fanning, Damian Lewis, và còn nữa…

Dù không ít người bất mãn với cách Tarantino xây dựng nhân vật Sharon, nhưng đây có lẽ là một thành công đột phá của QT. Vai của Robbie hầu như không có thoại. Bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng đôi chân thon dài và làn da rám nắng, nàng phả vào bộ phim hơi thở của một thời đại vàng son đang chực chờ lịm tắt. Đó là một góc nhìn ta chưa bao giờ thấy trong những nhân vật nữ khác của Tarantino, từ Beatrix Kiddo tới Jackie Brown, từ Shoshana Dreyfus tới Daisy Domergue. Ống kính dõi theo mỗi bước chân nàng là của Robert Richardson, nhưng con mắt âu yếm đến gần như sùng kính đằng sau nó là của QT. Đó là ánh nhìn trìu mến của gã đàn ông đã hơn ba mươi năm trót phải lòng nữ thần điện ảnh.

OUATIH, bằng màu sắc, bằng trang phục, bằng đạo cụ và đặc biệt là bằng âm nhạc, Tarantino đã tái hiện sống động Hollywood của thập niên 60. Không phải DiCaprio, không phải Pitt, cũng chẳng phải Robbie, thập niên 60 mới thực sự là nhân vật chính của bộ phim, đúng như tên phim ngầm ám chỉ. Tarantino yêu Hollywood của những ngày tháng ấy, và đã không từ một phương tiện nào, một thủ đoạn nào để tái tạo nó cho thỏa chí. Đó là nước phim vàng như nắng xứ Cali, là những tấm poster thấm đẫm màu quá khứ, là ánh sáng bập bùng của rạp chiếu bóng ngoài trời tên gọi Van Nuys. Nỗi hoài cổ quen thuộc của QT, lần này, trở thành một sự nuông chiều bản thân cực độ. Còn khán giả có thích hay không, đó chẳng phải là việc của ông.

Có thể OUATIH không là một tuyệt phẩm như Kill Bill mười lăm hay Pulp Fiction hai mươi lăm năm về trước, nhưng trong chừng mực nào đó nó đã vượt mặt các đàn anh trong chính sự phân cực khán giả của mình. Nó buộc người ta phải nói về nó, và nói nhiều hơn nữa về những gì nó ám chỉ, tôn vinh hay liên hệ đến. Viện phim Anh (BFI) thậm chí đưa ra danh sách 10 phim cũ nên xem sau OUATIH. Nếu đấy là điều QT kỳ vọng khi làm bộ phim này, há chẳng phải là ông đã quá thành công?

Một đặc sản nữa của Tarantino là tạo dựng và nhẩn nha dẫn dắt câu chuyện đến cao trào, làm sục sôi mạch máu người xem, mà trường đoạn quán rượu trong Inglourious Basterds là tiêu biểu. Nhưng đến OUATIH thì ngược lại. Từ cuộc so tài Cliff vs. Lý Tiểu Long đến các phân cảnh của Sharon, từ trường đoạn căng như dây đàn và đậm chất High Noon ở trang trại của George Spahn đến cái kết kỳ quái của bộ phim, Tarantino không ngừng làm người xem cụt hứng (và có lẽ âm thầm vỗ đùi khoái trá vì điều đó). Không ít khán giả thừa nhận mình đã bỏ dở giữa chừng vì không chịu nổi cái tiết tấu tréo ngoe này. Nếu có gì hiếm hoi thật sự thỏa mãn ở đây, thì đó hẳn là cảm giác dễ chịu khi ta dõi theo tình bằng hữu tự nhiên không nói thành lời của hai gã trai già bị Tinsel Town ruồng bỏ.

Có một sự tương đồng đặc biệt giữa OUATIH với Inglourious Basterds và với Django Unchained. Đấy là cả ba đều được phát triển xoay quanh cái nền là ba thảm án chấn động trong lịch sử, dù ở ba thời đại và ba cấp độ khác nhau – Holocaust, chế độ nô lệ và vụ sát hại Sharon Tate. Trong cả ba, Tarantino đều chèn nhân vật của mình vào để viết ra một phiên bản khác của lịch sử, và đều không từ một cơ hội nào để nhạo báng và vùi dập những kẻ thủ ác trên màn bạc – từ Hitler hay Goebbels trong Basterds đến đảng 3K của Django, và ở trường hợp này là đám hippie nhà Manson. Tarantino yêu quá khứ bao nhiêu thì ông cũng căm hận những kẻ hủy hoại nó bấy nhiêu, và ông sẵn sàng trừng phạt chúng một cách tàn khốc trên màn ảnh.

Bấy lâu Tarantino luôn bị giới đạo đức phê phán vì nồng độ bạo lực đậm đặc và đẫm máu trong phim của mình. Và đúng lúc ta tưởng QT đã nhượng bộ dư luận bằng một bộ phim hiền hòa thì kịch tính lại xảy ra, đúng theo quy luật kinh điển của điện ảnh: khẩu súng xuất hiện trong hồi một chắc chắn sẽ khạc lửa ở hồi ba. Và chú chó pit bull Brandy xuất hiện trong hồi một, tất nhiên, cũng sẽ có vai trò đặc biệt tại hồi ba. Tính bất ngờ của bạo lực ở đây, cũng như cuộc so găng đột ngột giữa Cliff và Lý Tiểu Long, là sự khiêu khích của QT hướng đến khán giả và dư luận. Và song hành cùng bạo lực là cái kết nằm ngoài dự đoán của hầu như tất cả mọi người. Nhưng nếu có chút gì bất mãn, xin hãy nhớ đến tên phim: đây vốn dĩ là một thiên cổ tích, không hơn./.

Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 8/2019


Monday, August 26, 2019

Nhất đại tông sư

 

Năm 1997, ATV ra mắt bộ phim truyền hình “Rồng đổi màu” (Biến sắc long). Cái tên như một dự cảm bất tường về tương lai của Hong Kong sau ngày trở về Đại lục. Sau năm 2014 màu vàng tràn ngập Trung Hoàn, những ngày này Hong Kong, một lần nữa, lại phong vân biến sắc.

Nhìn Hong Kong hôm nay, ta chợt bùi ngùi nhớ tới một người vĩnh viễn coi Hong Kong là chân ái của đời mình: Vương Gia Vệ. Phim gần đây nhất của Vương, Nhất đại tông sư, đã gây không ít hoang mang trong khán giả Việt. Không gợi cảm như Hoa dạng niên hoa, không bay bổng như Trùng Khánh sâm lâm, Nhất đại tông sư là câu đố thực sự với những ai nghĩ là mình yêu Vương Gia Vệ.

Năm 2004, Vương ra mắt 2046. Con số này là thời điểm kết thúc nửa thế kỷ “một nước hai chế độ,” theo thỏa thuận chuyển giao Hong Kong trở về Trung Quốc. Đấy cũng là số phòng của Châu Mộ Văn trước đấy ba năm, trong Hoa dạng niên hoa. Nỗi khắc khoải về tương lai của Hong Kong đã theo Vương từ phim này qua phim khác. Và cũng xuyên suốt từ phim này sang phim khác, là tình yêu da diết hướng về một Hong Kong trong quá khứ (hay “quá khứ” cũng chỉ là ẩn dụ Vương dành cho “hiện tại”?) Và The Grandmaster cũng không phải là ngoại lệ.

Hãy bắt đầu bằng nhân vật gây hoang mang nhất của phim: Nhất Tuyến Thiên! Rất nhiều người đã hỏi nhau: Tay cao thủ Bát cực quyền này làm gì ở đây, nếu không phải là làm cảnh? Hẳn là họ đã quên, thủ pháp ưa thích của Vương là dựng nên nhiều tuyến nhân vật song hành và để đời họ giao nhau trong thoáng chốc – hãy nhớ Trùng Khánh sâm lâm, và hãy nhớ 2046. Hong Kong, trong mắt Vương, là một miền đất đầy bao dung, đón nhận vào lòng mọi sinh linh cô độc, ban tặng cho họ một chốn bình yên. Nhất Tuyến Thiên là minh chứng cho điều đó. Tại Đại lục, y là kẻ cô đơn hơn cả, khi đồng chí của y trở mặt thành thù. Cái lần Cung Nhị ngả đầu vào vai y, có lẽ là lần duy nhất y biết đến hơi ấm của tình bằng hữu bình thủy tương phùng. Hong Kong đã cho y một tên đệ tử mắt hí, hơi xấu trai nhưng hẳn là quý mến ông thầy. Gã, và anh học trò vừa ăn no đã đòi tỉ thí của Diệp Vấn, là đại diện cho Hong Kong thuở ấy: những tay giang hồ vặt, chất phác nhưng đầy nghĩa khí. Chính cộng đồng ấy đã đón nhận Diệp Vấn, đã bái ông làm sư phụ, đã tạo nên Lý Tiểu Long, và đã giúp Vịnh Xuân quyền truyền bá ra toàn thế giới.

Nhưng vai của Nhất Tuyến Thiên không dừng ở đó. Y, cùng Cung Nhị và Mã Tam, hợp thành một cái nền ba cực vững chãi để Diệp Vấn nổi lên, uy nghi như vị đại tông sư đích thực – đâu phải ngẫu nhiên mà tên họ là ba số nhất, nhị, tam. Cả ba đều là cao thủ, nhưng cả ba đều khiếm khuyết. Mã Tam là Hán gian. Lục thập tứ thủ của Cung Nhược Mai âm nhu vô tỉ, nhưng cá tính lại cương ngạnh và cố chấp vô cùng. Nhất Tuyết Thiên cũng thu đệ tử, nhưng tính tình khép kín, cam phận làm chủ quán cắt tóc Bạch mai khôi. Chỉ có Diệp gia!

Hong Kong quả thực là chốn nương thân! Những nhân vật của Nhất đại tông sư, từ Cung tới Diệp, từ Nhất Tuyến Thiên tới Đinh Liên Sơn, đều từ Đại lục tìm đến Hong Kong không chỉ để tránh thời chiến loạn mà còn để được sống tự do, không câu thúc. Kim Lâu dù lộng lẫy tới đâu, vẫn là nơi Diệp và Cung gặp nhau như hai đối thủ. Phải đợi tới Hong Kong, nhiều năm sau, dưới ánh đèn đường mờ tối, họ mới được sánh vai, đi chậm rãi, trong lặng yên, như một đôi tình lữ, trong khuôn hình đẫm màu Hoa dạng niên hoa.

Khuôn hình ấy nhắc cho ta nhớ, Vương vẫn là đại hành gia về chuyển động. Dưới tay ông, Trương Mạn Ngọc đâu cần nói, dù chỉ một lời. Nàng chỉ đi thôi. Đi dưới ngọn đèn vàng, trong con ngõ nhỏ. tim ta thổn thức theo bước chân nàng. Võ thuật trong Nhất đại tông sư cũng vậy. Đây không phải là võ thuật, mà là hơi thở, là nhịp tim, là tiếng lòng, là xướng họa bằng chiêu thức. Cung Diệp hai người họ có thể gọi là nhất chiến chung tình. Một lần giao đấu (Diệp để tàng Hoa nhất độ) là trọn kiếp vấn vương (mộng đạp tuyết kỉ hồi).

Nhân vật chính ở Nhất đại tông sư có thể là Diệp Vấn. Nhưng những thước phim đẹp nhất của mình, Vương lại dành cho Cung Nhị – cũng như những thước phim đẹp nhất của Hoa dạng niên hoa từng được ông dành cho Tô Lệ Trân. Có thể nói, đây là vai diễn đỉnh cao của Chương Tử Di kể ngày xuất đạo. Với Vương, khí chất cũng là một cách diễn xuất, thần thái cũng là một thứ tài hoa. Cả phim, Cung Nhị có năm trường đoạn – tranh luận với cha, tỉ đấu Kim Lâu, cãi lời trưởng bối, quyết chiến Mã Tam, và thổ lộ chân tình. Mỗi đoạn lại là một cung bậc trong tính cách quyết tuyệt của nàng, trong đó nốt cao nhất là đêm trừ tịch tại nhà ga Đông Bắc, và nốt trầm nhất là bên lề rạp hát Đại Nam. Cung Nhược Mai kiều diễm nhất là khi ngạo nghễ ngồi trên cầu thang, nhìn xuống họ Diệp cam tâm nhận bại dưới lầu. Nhưng khó quên hơn cả lại là lúc nàng, dung nhan tiều tụy, hút thuốc trong rạp hát. Hồi tuổi trẻ khí thịnh, nàng chẳng điểm trang mà vẫn uy nghi lãnh diễm giữa muôn ngàn son phấn của Kim Lâu. Nhưng lần cuối gặp người, nàng lại đánh son. Màu son đỏ tươi, như màu máu trên cửa kính cái ngày nàng đòi lại đồ nhà họ Cung từ sư huynh, như nỗ lực tối hậu của nàng nhằm bảo lưu hình ảnh đẹp đẽ trong mắt ý trung nhân. Võ công lẫn tính cách nàng đối lập với Diệp Vấn: nếu Vịnh Xuân quyền chỉ có “nhãn tiền lộ” (đường trước mắt) thì Bát quái chưởng lại đi đường vòng, tựa như lòng nàng luôn vấn vương quá khứ (“thân hậu thân”). Khi nàng đấu Mã Tam, cũng là lúc đoàn tàu cuối năm rời bến. Báo được gia thù cũng đồng nghĩa với việc lỡ chuyến tàu đời mình. Cung Nhị đã chọn ở lại với quá khứ, ở lại với thời đại nàng thuộc về, để Diệp Vấn thay nàng đi tiếp chặng đường, khai tông lập phái ở Hong Kong.

Điều thú vị là Vương không hề tận dụng Diệp Vấn hòng gột rửa ám ảnh “Đông Á bệnh phu” bằng cách đặt ông lên sàn đấu với Nhật hay Tây như Diệp Vĩ Tín từng làm. Ông xây dựng nhân vật một cách điềm tĩnh mà trìu mến. Diệp Vấn của ông, ra ngoài là nhất đại tông sư, một đời truyền đăng vô số, nhưng vào trong vẫn có những bi kịch rất người, không khác gì Châu Mộ Văn hay chàng cảnh sát số hiệu 663. Hay nói đúng hơn, chính cái thân phận tông sư ấy lại càng khiến bi kịch của ông sâu thêm một tầng. Hiểu chính mình, hiểu thiên địa, hiểu chúng sinh rồi thì sao chứ? Hiểu đâu có nghĩa là không đau khổ? Họ Diệp đả biến thiên hạ vô địch thủ, nhưng chẳng đánh bại được nỗi sầu thiên cổ với hai người đàn bà trong đời ông. Cũng bởi thế nên bộ phim kết thúc không bao lâu sau khi Cung Nhị qua đời. Đâu còn gì mà kể nữa! Cuộc đời họ Diệp, từ đây về sau, chỉ có thể mải miết đi về phía trước, mà chẳng thể hồi đầu, dù là tìm về Đông Bắc hay trở lại Phật Sơn.

Chính những yếu tố ấy đã khiến Diệp Vấn trong mắt Vương trở thành một người Hong Kong lý tưởng (hãy nhớ câu phụ đề ở cuối phim: Năm 1950, Diệp Vấn lấy được chứng minh thư Hương Cảng, sau khi biên giới với Trung Quốc đóng cửa – Vương đặc biệt nhấn mạnh điều này). Cái chân tâm ấy, cái đa tình ấy, cái yêu đời hiểu mình và thương người ấy, dĩ nhiên là tính cách của họ Diệp, nhưng cũng là sự hun đúc của một vùng đất tiếng là thuộc địa nhưng đã vùng vẫy tự do gần hai thế kỷ. Chẳng phải tự nhiên mà Vương thường xuyên đan cài những khuôn hình tư liệu vào câu chuyện – từ những chuyến tàu điện thập niên 50 tới cảnh lễ đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth. Đó là nỗi nhớ tiếc khôn nguôi dành cho một thời đại mà đến giờ, sau hơn hai thập niên mất đi, nhiều người Hong Kong mới thực sự thấy quý giá đến nhường nào./.

Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 8/2019