Một cuộc tình chưa trải qua thử thách thì chưa thể
gọi là tình yêu đích thực. Điều đó không chỉ đúng với tình yêu đôi lứa, mà còn
đúng với tình yêu điện ảnh. Và đối với những người yêu (hoặc tự nhận là mình yêu)
Quentin Tarantino, Once upon a time in… Hollywood
(OUATIH) là một thử thách như thế.
Có những nhà phê bình nhận xét đây là tác phẩm
“riêng tư nhất” trong chín bộ phim của Tarantino. Thật ra, phim của Tarantino có
bao giờ là không “riêng tư.” Chẳng qua là cái riêng tư của ông chồng lấn ít hay
nhiều với khẩu vị của đa số khán giả mà thôi. Trước khi làm phim cho người khác
xem, QT luôn làm phim cho chính mình và cho tình yêu điện ảnh ấp ủ từ hồi ông
còn là anh cho thuê băng ở Manhattan Beach. Cũng phải mở ngoặc rằng điện ảnh mà
ông yêu khác xa thứ điện ảnh hàn lâm
quen thuộc – tức là đầy rẫy những phim hạng B hoặc genre movie, nếu không được
tôn vinh nhờ những bộ phim đầy hoài niệm của ông thì hẳn đã chìm sâu vào quên
lãng.
OUATIH, bởi thế, cũng như câu hát đầy khắc khoải của Joni Mitchell, Will you take me as I am?, là câu hỏi được
QT, sau hai mươi bảy năm dọc ngang làng điện ảnh, đặt ra cho khán giả của mình:
(phim) tôi thế đấy, người có yêu tôi không?
Và quả thực, bộ phim đã được Tarantino thực hiện
theo một phong cách rất bất cần, nghĩa là không yêu giả dép bố về. Chỉ ông mới dám
chiêu đãi khán giả bằng cả khuôn hình đặc tả hai bàn chân kiêu ngạo giẫm lên
phim của Margot Robbie qua vai Sharon Tate, hình ảnh không khỏi làm ta bồi hồi nhớ
đến ngón chân cái của Uma Thurman ở Kill
Bill nhiều năm về trước. Và cũng chỉ có ông mới dám mang chính thần tượng của
bao người (và của chính ông, với hình ảnh Beatrix Kiddo mặc bộ jumsuit màu
vàng) ra để mà nhạo báng.
Từ khi OUATIH
chưa ra mắt, truyền thông đã câu dẫn khán giả bằng cách hé lộ rằng bộ phim xoay
quanh vụ thảm sát có thật của cô đào Sharon Tate, sự kiện chấn động California mùa
thu 1969, được nhiều người coi là đánh dấu chấm hết cho kỷ nguyên kinh điển của
Hollywood.
Câu chuyện tưởng vậy mà không phải vậy.
Tate có hiện diện và hiện diện một cách lung linh
và lộng lẫy như thời đại mà nàng là đại diện. Nhưng hóa ra nàng chỉ là hàng xóm
của Rick Dalton (Leonardo DiCaprio), một diễn viên Viễn Tây đã sang bên kia sườn
dốc của sự nghiệp. Rick có anh bạn gần chưa bằng vợ nhưng thân hơn anh em, kiêm
người đóng thế lẫn tài xế riêng tên gọi Cliff Booth (Brad Pitt). Trong khi Sharon
có khuôn mặt thiên thần và cái cằm vuông khỏe khoắn gợi nhớ Ingrid Bergman nhấm
nháp vị ngọt của một minh tinh đang lên thì Rick khổ sở vật lộn trong nỗi cay đắng
của ngôi sao sắp xuống và tìm quên trong rượu. Khi không cởi trần, phô thân
hình rám nắng và sửa ăngten cho bạn, Cliff bóp mũi Lý Tiểu Long (!), chạy xe rong
trên đường phố Cali, cho gái non đi nhờ, và đá đít một lũ hippie.
Nhưng dù ai chính và ai phụ, thì lựa chọn của
Tarantino cho từng vai diễn cũng như diễn xuất của mỗi người có thể nói là khỏi
chê. DiCaprio mới mẻ bao nhiêu dưới hình hài một ngôi sao hết thời thì Pitt lại
thoải mái bấy nhiêu trong vai gã diễn viên hạng hai tuyệt đối bằng lòng với nghề
đóng thế. Robbie tỏa sáng bao nhiêu bằng cử chỉ và khí chất tự nhiên thì Julia
Butters lại làm khán giả ngỡ ngàng bấy nhiêu khi hóa thân thành cô diễn viên nhỏ
tuổi tôn sùng trường phái nhập vai (method acting). Và đó là chưa kể những vai
rất phụ được đảm nhiệm bằng những khuôn mặt không thể chính hơn: Al Pacino,
Dakota Fanning, Damian Lewis, và còn nữa…
Dù không ít người bất mãn với cách Tarantino xây dựng
nhân vật Sharon, nhưng đây có lẽ là một thành công đột phá của QT. Vai của
Robbie hầu như không có thoại. Bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng đôi chân thon
dài và làn da rám nắng, nàng phả vào bộ phim hơi thở của một thời đại vàng son
đang chực chờ lịm tắt. Đó là một góc nhìn ta chưa bao giờ thấy trong những nhân
vật nữ khác của Tarantino, từ Beatrix Kiddo tới Jackie Brown, từ Shoshana
Dreyfus tới Daisy Domergue. Ống kính dõi theo mỗi bước chân nàng là của Robert
Richardson, nhưng con mắt âu yếm đến gần như sùng kính đằng sau nó là của QT.
Đó là ánh nhìn trìu mến của gã đàn ông đã hơn ba mươi năm trót phải lòng nữ thần
điện ảnh.
Ở OUATIH,
bằng màu sắc, bằng trang phục, bằng đạo cụ và đặc biệt là bằng âm nhạc,
Tarantino đã tái hiện sống động Hollywood của thập niên 60. Không phải
DiCaprio, không phải Pitt, cũng chẳng phải Robbie, thập niên 60 mới thực sự là nhân
vật chính của bộ phim, đúng như tên phim ngầm ám chỉ. Tarantino yêu Hollywood của
những ngày tháng ấy, và đã không từ một phương tiện nào, một thủ đoạn nào để
tái tạo nó cho thỏa chí. Đó là nước phim vàng như nắng xứ Cali, là những tấm
poster thấm đẫm màu quá khứ, là ánh sáng bập bùng của rạp chiếu bóng ngoài trời
tên gọi Van Nuys. Nỗi hoài cổ quen thuộc của QT, lần này, trở thành một sự
nuông chiều bản thân cực độ. Còn khán giả có thích hay không, đó chẳng phải là
việc của ông.
Có thể OUATIH
không là một tuyệt phẩm như Kill Bill
mười lăm hay Pulp Fiction hai
mươi lăm năm về trước, nhưng trong chừng mực nào đó nó đã vượt mặt các đàn anh
trong chính sự phân cực khán giả của mình. Nó buộc người ta phải nói về nó, và
nói nhiều hơn nữa về những gì nó ám chỉ, tôn vinh hay liên hệ đến. Viện phim
Anh (BFI) thậm chí đưa ra danh sách 10 phim cũ nên xem sau OUATIH. Nếu đấy là điều QT kỳ vọng khi làm bộ phim này, há chẳng phải
là ông đã quá thành công?
Một đặc sản nữa của Tarantino là tạo dựng và nhẩn
nha dẫn dắt câu chuyện đến cao trào, làm sục sôi mạch máu người xem, mà trường
đoạn quán rượu trong Inglourious Basterds
là tiêu biểu. Nhưng đến OUATIH thì
ngược lại. Từ cuộc so tài Cliff vs. Lý Tiểu Long đến các phân cảnh của Sharon,
từ trường đoạn căng như dây đàn và đậm chất High
Noon ở trang trại của George Spahn đến cái kết kỳ quái của bộ phim, Tarantino
không ngừng làm người xem cụt hứng (và có lẽ âm thầm vỗ đùi khoái trá vì điều
đó). Không ít khán giả thừa nhận mình đã bỏ dở giữa chừng vì không chịu nổi cái
tiết tấu tréo ngoe này. Nếu có gì hiếm hoi thật sự thỏa mãn ở đây, thì đó hẳn là
cảm giác dễ chịu khi ta dõi theo tình bằng hữu tự nhiên không nói thành lời của
hai gã trai già bị Tinsel Town ruồng bỏ.
Có một sự tương đồng đặc biệt giữa OUATIH với Inglourious Basterds và với Django
Unchained. Đấy là cả ba đều được phát triển xoay quanh cái nền là ba thảm
án chấn động trong lịch sử, dù ở ba thời đại và ba cấp độ khác nhau –
Holocaust, chế độ nô lệ và vụ sát hại Sharon Tate. Trong cả ba, Tarantino đều
chèn nhân vật của mình vào để viết ra một phiên bản khác của lịch sử, và đều
không từ một cơ hội nào để nhạo báng và vùi dập những kẻ thủ ác trên màn bạc –
từ Hitler hay Goebbels trong Basterds đến
đảng 3K của Django, và ở trường hợp
này là đám hippie nhà Manson. Tarantino yêu quá khứ bao nhiêu thì ông cũng căm
hận những kẻ hủy hoại nó bấy nhiêu, và ông sẵn sàng trừng phạt chúng một cách
tàn khốc trên màn ảnh.
Bấy lâu Tarantino luôn bị giới đạo đức phê phán vì nồng độ bạo lực đậm đặc và đẫm máu trong phim của mình. Và đúng lúc ta tưởng QT đã nhượng bộ dư luận bằng một bộ phim hiền hòa thì kịch tính lại xảy ra, đúng theo quy luật kinh điển của điện ảnh: khẩu súng xuất hiện trong hồi một chắc chắn sẽ khạc lửa ở hồi ba. Và chú chó pit bull Brandy xuất hiện trong hồi một, tất nhiên, cũng sẽ có vai trò đặc biệt tại hồi ba. Tính bất ngờ của bạo lực ở đây, cũng như cuộc so găng đột ngột giữa Cliff và Lý Tiểu Long, là sự khiêu khích của QT hướng đến khán giả và dư luận. Và song hành cùng bạo lực là cái kết nằm ngoài dự đoán của hầu như tất cả mọi người. Nhưng nếu có chút gì bất mãn, xin hãy nhớ đến tên phim: đây vốn dĩ là một thiên cổ tích, không hơn./.
Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 8/2019