Năm 1997, ATV ra mắt bộ phim truyền
hình “Rồng đổi màu” (Biến sắc long). Cái tên như một dự cảm bất tường về tương
lai của Hong Kong sau ngày trở về Đại lục. Sau năm 2014 màu vàng tràn ngập Trung
Hoàn, những ngày này Hong Kong, một lần nữa, lại phong vân biến sắc.
Nhìn Hong Kong hôm nay, ta chợt bùi
ngùi nhớ tới một người vĩnh viễn coi Hong Kong là chân ái của đời mình: Vương
Gia Vệ. Phim gần đây nhất của Vương, Nhất
đại tông sư, đã gây không ít hoang mang trong khán giả Việt. Không gợi cảm như Hoa dạng niên hoa, không bay bổng như Trùng Khánh sâm lâm, Nhất đại
tông sư là câu đố thực sự với những ai nghĩ là mình yêu Vương Gia Vệ.
Năm 2004, Vương ra mắt 2046. Con số này là thời điểm kết thúc nửa
thế kỷ “một nước hai chế độ,” theo thỏa thuận chuyển giao Hong Kong trở về
Trung Quốc. Đấy cũng là số phòng của Châu Mộ Văn trước đấy ba năm, trong Hoa dạng niên hoa. Nỗi khắc khoải về
tương lai của Hong Kong đã theo Vương từ phim này qua phim khác. Và cũng xuyên
suốt từ phim này sang phim khác, là tình yêu da diết hướng về một Hong Kong
trong quá khứ (hay “quá khứ” cũng chỉ là ẩn dụ Vương dành cho “hiện tại”?) Và The Grandmaster cũng không phải là ngoại
lệ.
Hãy bắt đầu bằng nhân vật gây hoang
mang nhất của phim: Nhất Tuyến Thiên! Rất nhiều người đã hỏi nhau: Tay cao thủ
Bát cực quyền này làm gì ở đây, nếu không phải là làm cảnh? Hẳn là họ đã quên,
thủ pháp ưa thích của Vương là dựng nên nhiều tuyến nhân vật song hành và để đời
họ giao nhau trong thoáng chốc – hãy nhớ Trùng
Khánh sâm lâm, và hãy nhớ 2046. Hong
Kong, trong mắt Vương, là một miền đất đầy bao dung, đón nhận vào lòng mọi sinh
linh cô độc, ban tặng cho họ một chốn bình yên. Nhất Tuyến Thiên là minh chứng
cho điều đó. Tại Đại lục, y là kẻ cô đơn hơn cả, khi đồng chí của y trở mặt
thành thù. Cái lần Cung Nhị ngả đầu vào vai y, có lẽ là lần duy nhất y biết đến
hơi ấm của tình bằng hữu bình thủy tương phùng. Hong Kong đã cho y một tên đệ tử
mắt hí, hơi xấu trai nhưng hẳn là quý mến ông thầy. Gã, và anh học trò vừa ăn
no đã đòi tỉ thí của Diệp Vấn, là đại diện cho Hong Kong thuở ấy: những tay
giang hồ vặt, chất phác nhưng đầy nghĩa khí. Chính cộng đồng ấy đã đón nhận Diệp
Vấn, đã bái ông làm sư phụ, đã tạo nên Lý Tiểu Long, và đã giúp Vịnh Xuân quyền
truyền bá ra toàn thế giới.
Nhưng vai của Nhất Tuyến Thiên không dừng
ở đó. Y, cùng Cung Nhị và Mã Tam, hợp thành một cái nền ba cực vững chãi để Diệp
Vấn nổi lên, uy nghi như vị đại tông sư đích thực – đâu phải ngẫu nhiên mà tên
họ là ba số nhất, nhị, tam. Cả ba đều là cao thủ, nhưng cả ba đều khiếm khuyết.
Mã Tam là Hán gian. Lục thập tứ thủ của Cung Nhược Mai âm nhu vô tỉ, nhưng cá tính lại cương ngạnh và cố chấp vô
cùng. Nhất Tuyết Thiên cũng thu đệ tử, nhưng tính tình khép kín, cam phận làm chủ
quán cắt tóc Bạch mai khôi. Chỉ có
Diệp gia!
Hong Kong quả thực là chốn nương thân! Những
nhân vật của Nhất đại tông sư, từ
Cung tới Diệp, từ Nhất Tuyến Thiên tới Đinh Liên Sơn, đều từ Đại lục tìm đến Hong Kong không chỉ để tránh thời chiến loạn
mà còn để được sống tự do, không câu thúc. Kim Lâu dù lộng lẫy tới đâu, vẫn là nơi Diệp và Cung gặp
nhau như hai đối thủ. Phải đợi tới Hong Kong, nhiều năm sau, dưới ánh đèn đường
mờ tối, họ mới được sánh vai, đi chậm rãi, trong lặng yên, như một đôi tình lữ,
trong khuôn hình đẫm màu Hoa dạng niên
hoa.
Khuôn hình ấy nhắc cho ta nhớ, Vương vẫn
là đại hành gia về chuyển động. Dưới tay ông, Trương Mạn Ngọc đâu cần nói, dù chỉ một lời. Nàng chỉ đi
thôi. Đi dưới ngọn đèn vàng, trong con ngõ nhỏ.
Và tim ta thổn thức theo bước chân nàng.
Võ thuật trong Nhất đại tông sư cũng
vậy. Đây không phải là võ thuật, mà là hơi thở, là nhịp tim, là tiếng lòng, là
xướng họa bằng chiêu thức. Cung Diệp hai người họ có thể gọi là nhất chiến chung tình. Một lần giao
đấu (Diệp để tàng Hoa nhất độ) là trọn kiếp vấn vương (mộng
lý đạp tuyết kỉ hồi).
Nhân vật chính ở Nhất đại tông sư có thể là Diệp Vấn. Nhưng những thước phim đẹp nhất
của mình, Vương lại dành cho Cung Nhị – cũng như những thước phim đẹp nhất của Hoa dạng niên hoa từng được ông dành cho
Tô Lệ Trân. Có thể nói, đây là vai diễn đỉnh cao của Chương Tử Di kể ngày xuất
đạo. Với Vương, khí chất cũng là một cách diễn
xuất,
và thần thái cũng là một thứ tài hoa. Cả
phim, Cung Nhị có năm trường đoạn – tranh luận với cha, tỉ đấu Kim Lâu, cãi lời
trưởng bối, quyết chiến Mã Tam, và thổ lộ chân tình. Mỗi đoạn lại là một cung bậc
trong tính cách quyết tuyệt của nàng, trong đó nốt cao nhất là đêm trừ tịch tại
nhà ga Đông Bắc, và nốt trầm nhất là bên lề rạp hát Đại Nam. Cung Nhược Mai kiều
diễm nhất là khi ngạo nghễ ngồi trên cầu thang, nhìn xuống họ Diệp cam tâm nhận
bại dưới lầu. Nhưng khó quên hơn cả lại là lúc nàng, dung nhan tiều tụy, hút
thuốc trong rạp hát. Hồi tuổi trẻ khí thịnh, nàng chẳng điểm trang mà vẫn uy
nghi lãnh diễm giữa muôn ngàn son phấn của Kim Lâu. Nhưng lần cuối gặp người,
nàng lại đánh son. Màu son đỏ tươi, như màu máu trên cửa kính cái ngày nàng đòi
lại đồ nhà họ Cung từ sư huynh, như nỗ lực tối hậu của nàng nhằm bảo lưu hình ảnh
đẹp đẽ trong mắt ý trung nhân. Võ công lẫn tính cách nàng đối lập với Diệp Vấn:
nếu Vịnh Xuân quyền chỉ có “nhãn tiền lộ” (đường trước mắt) thì Bát quái chưởng
lại đi đường vòng, tựa như lòng nàng luôn vấn vương quá khứ (“thân hậu thân”).
Khi nàng đấu Mã Tam, cũng là lúc đoàn tàu cuối năm rời bến. Báo được gia thù
cũng đồng nghĩa với việc lỡ chuyến tàu đời mình. Cung Nhị đã chọn ở lại với quá
khứ, ở lại với thời đại nàng thuộc về, để Diệp Vấn thay nàng đi tiếp chặng đường,
khai tông lập phái ở Hong Kong.
Điều thú vị là Vương không hề tận
dụng Diệp Vấn hòng gột rửa ám ảnh
“Đông Á bệnh phu” bằng cách đặt ông lên sàn đấu với Nhật hay Tây như Diệp Vĩ
Tín từng làm. Ông xây dựng nhân
vật một cách điềm tĩnh mà trìu mến. Diệp Vấn của ông, ra ngoài là nhất đại tông
sư, một đời truyền đăng vô số, nhưng vào trong vẫn có những bi kịch rất người, không khác gì Châu Mộ
Văn hay chàng cảnh sát số hiệu 663. Hay nói đúng hơn, chính cái thân phận tông
sư ấy lại càng khiến bi kịch của ông sâu thêm một tầng. Hiểu chính mình, hiểu
thiên địa, hiểu chúng sinh rồi thì sao chứ? Hiểu đâu có nghĩa là không đau khổ?
Họ Diệp đả biến thiên hạ vô địch thủ, nhưng chẳng
đánh bại được nỗi
sầu thiên cổ với hai người đàn bà trong đời ông. Cũng
bởi thế nên bộ phim kết thúc không bao lâu sau khi Cung Nhị qua đời. Đâu còn gì
mà kể nữa! Cuộc đời họ Diệp, từ đây về sau, chỉ có thể mải miết đi về phía trước,
mà chẳng thể hồi đầu, dù là tìm về Đông Bắc hay trở lại Phật Sơn.
Chính những yếu tố
ấy đã khiến Diệp Vấn trong mắt Vương trở thành một người Hong Kong lý tưởng
(hãy nhớ câu phụ đề ở cuối phim: Năm 1950, Diệp Vấn lấy được chứng minh thư Hương Cảng, sau khi
biên giới với Trung Quốc đóng cửa – Vương đặc biệt nhấn mạnh điều này). Cái chân tâm ấy,
cái đa tình ấy, cái yêu đời hiểu mình và thương người ấy, dĩ nhiên là tính cách
của họ Diệp, nhưng cũng là sự hun đúc của một vùng đất tiếng là thuộc địa nhưng
đã vùng vẫy tự do gần hai thế
kỷ. Chẳng
phải tự nhiên mà Vương thường xuyên đan cài những khuôn hình tư liệu vào câu
chuyện – từ những chuyến tàu điện thập niên 50 tới cảnh lễ đăng quang của Nữ
hoàng Elizabeth. Đó là nỗi nhớ tiếc khôn nguôi dành cho một thời đại mà đến giờ,
sau hơn hai thập niên mất đi, nhiều người Hong Kong mới thực sự thấy quý giá đến
nhường nào./.
Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 8/2019
No comments:
Post a Comment