Sunday, June 21, 2020

Bạn tốt và bút sắc

 

Nếu được hỏi sẽ chọn cuốn sách nào để tặng cho một nhà báo nhân ngày Báo chí Việt Nam, câu trả lời của tôi sẽ là Charlotte’s Web.

Câu trả lời này, hẳn sẽ làm khá nhiều người ngạc nhiên. Charlotte’s Web? Một cuốn sách dành cho thiếu nhi?

Năm hai ngàn lẻ tám, tôi đọc Charlotte’s Web lần đầu tiên, khi ngồi tại Creperie trên đường Hàn Thuyên. Khi đó, tôi đang học thạc sĩ báo chí ở Melbourne, về Sài Gòn chơi và ngồi đợi một cô gái. Tuy lúc đó chưa hề biết cô gái mình đang đợi sẽ là người phụ nữ dành cho tôi, nhưng ngay từ lúc đó, tôi đã cảm thấy đây thực sự là cuốn sách kinh điển dành cho người làm báo.

Bởi nó là cuốn sách của một bậc thầy trong nghề báo. Elwyn Brooks White, sinh năm 1899, mất năm 1985, là cây bút kỳ cựu của The New Yorker gần sáu mươi năm, là tác giả của The Elements of Style, cuốn sách nhỏ đã bán được 10 triệu bản và sau ba lần tái bản đã gần như trở thành Kinh Thánh về cách viết tiếng Anh trên đất Mỹ.

Charlotte’s Web kể về tình bạn giữa cô nhện Charlotte và chú lợn Wilbur. Khi Wilbur có nguy cơ bị ông chủ làm thịt, Charlotte đã viết chữ lên mạng nhện của mình trong nhà kho để thu hút sự chú ý của công chúng, và nhờ vậy cứu cậu thoát chết.

Trẻ con và người lớn sẽ yêu Charlotte’s Web theo cách của riêng mình, nhưng những người làm báo chắc chắn sẽ yêu cuốn sách vì thấy nghề nghiệp của mình trong đó.

Bởi tấm mạng nhện của Charlotte, dưới ngòi bút của White, đã thành ẩn dụ về báo chí và về sức mạnh khôn lường của nó: cứu mạng Wilbur và biến cậu từ một con lợn cọc thành ngôi sao ở chốn đồng quê. Charlotte chính là hình ảnh điển hình của một biên tập viên – sắc sảo, hài hước, tàn nhẫn, và có biệt tài ngôn ngữ. Khi mọi xôn xao về dòng chữ đầu tiên (SOME PIG) trên mạng nhện đã lắng xuống, Charlotte triệu tập các con vật trong nông trại để tìm chữ mới. Trước gợi ý của ngỗng (Terrific, terrific, terrific), Charlotte gọt giũa đề xuất này thành một phương án ngắn hơn, có sức nặng hơn: TERRIFIC. Đấy chẳng phải là một ví dụ kinh điển về đời biên tập đó ư? Và chẳng phải ngẫu nhiên mà vai Charlotte lại là nữ. Người bạn đời gần nửa thế kỷ của White, Katherine Sergeant, hơn ông bảy tuổi và là người tuyển mộ ông vào The New Yorker, chính là biên tập viên hàng đầu của tờ tạp chí từ khi thành lập và nhân vật chủ chốt gây dựng nên uy tín của nó ngày nay. Trong những tên tuổi từng đi qua bàn tay biên tập của bà, có thể kể đến Nabokov hay John Updike. Ở Charlotte, ta thấy bóng dáng người vợ, người chị và người đồng nghiệp của White – bài thơ đầu tiên ông viết tặng vợ sau ngày cưới là bài thơ về con nhện. Nếu nhìn lại cuộc lên ngôi của internet, chữ Web của White quả thực là một lời tiên tri chính xác từ nửa thế kỷ trước về tương lai của báo chí ngày nay.

Không dừng lại ở đó, câu chuyện chọn chữ của Charlotte còn là câu chuyện về nỗ lực của báo chí nhằm duy trì quan tâm của dư luận. Hơn ai hết, cô nhện này hiểu sâu sắc công chúng khi nhận xét “người ta tin hầu hết mọi thứ họ thấy trên báo,” nhưng cũng rất tỉnh táo khi biết vòng đời của tin tức rất ngắn ngủi, và nếu không tiếp tục thu hút được sự chú ý thì Wilbur khó lòng được an toàn. Thế nên khi mới quyết định dệt chữ thứ hai, “Terrific,” Charlotte đã sớm giao nhiệm vụ cho con chuột Templeton tiếp tục đi tìm nguồn tin cho những “số báo” sau. Chữ thứ ba được Charlotte sử dụng chính là do Templeton mang về – một mẩu quảng cáo nhặt từ bãi rác, một dụ ngôn của White, nhắn nhủ với ta rằng trong rác vẫn có thể có vàng, và không từ nào là bỏ đi cả, nếu ta biết cách dùng.

Một nguyên tắc làm báo bất di bất dịch của Charlotte là danh phải xứng với thực. Nói cách khác, Charlotte không nói láo. Những chữ cô dệt để ca ngợi Wilbur, căn bản đều phản ánh chính xác phẩm chất của cậu. Khi Wilbur còn là một con lợn còi, Charlotte dùng chữ cũng rất tiết chế. Phải tới khi cậu đã trổ mã, đã khỏe đẹp hơn, cô mới mạnh dạn dùng những chữ oách hơn. Nhưng chữ cuối cùng, then chốt, tạo đột phá, xác lập vị thế vĩnh viễn cho Wilbur trong nhà Zuckerman lại không phải là một chữ tán tụng ngoại hình, mà là một chữ hết sức khiêm nhường để ca ngợi tính cách của chú. Tuyệt chiêu chuyển bại thành thắng này hẳn sẽ là bài học đáng nhớ với mọi người làm báo. Và quả thực, cái cách Charlotte nói chuyện, cách cô điềm đạm giải nghĩa từng từ khó, bình thản nhận xét về cuộc sống, hay châm biếm bình phẩm một điều gì, tất thảy đều toát lên vẻ minh triết và lịch duyệt của một nhà báo lão thành.

Điều đặc biệt nhất ở Charlotte’s Web có lẽ là tính hiện thực đến tàn nhẫn của nó, một đặc điểm rất điển hình trong báo chí nhưng lại rất không điển hình với một tác phẩm dành cho thiếu nhi. Hiếm có câu chuyện trẻ em nào lại bắt đầu bằng một câu văn gây sốc như thế: “Bố cầm rìu đi đâu thế nhỉ?” Bắt đầu bằng nỗi ám ảnh của cái chết và kết thúc bằng một cái chết, câu chuyện đã khiến biết bao thế hệ độc giả phải thẫn thờ. Ấy thế nhưng Charlotte’s Web vẫn đứng đầu trong danh sách những cuốn sách yêu thích của trẻ em. Đó là bởi White, bằng ngòi bút điềm tĩnh của mình, đã biến cái chết thành một phần tự nhiên và tất yếu của cuộc sống. Câu chuyện của Wilbur và của Charlotte, chính là hành trình đón nhận sự thật ấy một cách hết sức bình yên. Điều thú vị là đến tận bây giờ vẫn có không ít độc giả viết thư cho White để “phàn nàn” về cái kết, và đa số là người lớn. Hóa ra, càng hiểu sự chết bao nhiêu, Wilbur cùng những độc giả nhỏ tuổi của White càng thêm yêu cuộc sống bấy nhiêu. Chỉ có người lớn là gặp khó khăn về điều đó.

Tái hiện cuộc sống như nó vốn thế là một nhiệm vụ chẳng dễ dàng gì, và White đã rất kỳ công để làm điều ấy. Lấy nhện, một sinh vật thường bị sợ hãi hơn là yêu thích, làm nhân vật chính là khởi điểm. Ông mất một năm tìm hiểu về loài nhện, tham khảo giới chuyên gia và tự mình vẽ đồ họa về chúng. Ông tiếp cận chúng bằng con mắt của một nhà khoa học chứ không phải nhà văn, và từ chối đề xuất “mỹ hóa” con nhện từ nghệ sĩ minh họa (Garth Williams), cũng như yêu cầu thay đổi cái kết từ nhà xuất bản. Câu chữ của Charlotte’s Web kết tinh cái đẹp của văn chương lẫn sự chính xác trong khoa học. Vì là câu chuyện dành cho thiếu nhi, ngôn ngữ của tác phẩm không thể quá phức tạp. Nhưng chính trong cái dung dị ấy, văn phong xuất chúng của White lại được bộc lộ đến tột cùng. Đơn giản mà thấm thía, súc tích mà biểu cảm, nghiêm cẩn song vẫn đầy nhạc tính, đó chỉ có thể là tác phẩm của một ngòi bút bậc thầy.

E. B. White đã kết thúc câu chuyện của ông bằng một câu này: Bạn tốt và bút sắc, hai cái đó phải có duyên mới gặp được. Charlotte là cả hai. Nhìn từ góc độ của độc giả, hai phẩm chất này, há chẳng phải là tinh túy của nghề báo hay sao?

Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 6/2020

Tuesday, June 9, 2020

King and President

 

Những ngày này, cuộc đối đầu không khoan nhượng giữa Trump với Twitter khiến người ta nghĩ nhiều đến mối quan hệ bội phần phức tạp giữa chính quyền với truyền thông, một thứ đặc sản rất mực Hoa Kỳ – hãy nhớ House of Cards, nơi nữ phóng viên Zoe Barnes vừa là công cụ, vừa là tình nhân, và rốt cục trở thành nạn nhân của Frank Underwood, người sau này trở thành Tổng thống.

Tất nhiên, chẳng cứ gì Mỹ, ở đâu cũng vậy thôi, truyền thông luôn va chạm với chính quyền, không ít thì nhiều. Nhưng ân oán sâu xa giữa hai thứ quyền lực hành pháp và giám sát này có thể nói đã lên đến đỉnh điểm tại xứ sở cờ hoa. Chẳng cần lên đến cấp quốc gia và cũng chẳng phải đợi đến thế kỷ 20, báo chí mới có cơ hội vẫy vùng ở Tân thế giới. Một thị trấn Viễn Tây điển hình thế kỷ 19 luôn tồn tại một tờ báo, dù nhỏ bé và khiêm tốn, lượng phát hành chỉ vài chục bản. Đó là Daily Star ở tập truyện tranh Lucky Luke cùng tên. Đó là Shinbone Star trong The Man Who Shot Liberty Valance (1962). Những tờ báo ấy là hạt giống đầu tiên của tự do ngôn luận ở xứ này. Nói như chủ bút tờ Shinbone, “Tôi là người làm báo… Chính trị gia là món chính của tôi – tôi dựng họ lên, tôi lôi họ xuống.”

Vừa dõi theo cuộc chiến giữa Trump và báo chí, vừa xem lại mấy tác phẩm kinh điển của Hollywood về đề tài này, âu cũng là một điều thú vị trong những ngày hậu Covid. Hai lựa chọn xứng đáng nhất, có lẽ là All the King’s men, câu chuyện về một chính trị gia, và All the President’s men, câu chuyện về hai nhà báo.

Khác với Trump, một tỉ phú chuyển nghề, Willie Stark trong King’s xuất thân là một con người chất phác mong ước đóng góp cho cộng đồng, nhưng biến chất từ khi dấn thân vào con đường chính trị, đặc biệt là từ khi thành thống đốc bang. Câu chuyện ấy được thuật lại qua lời kể của Jack Burden, một phóng viên ngưỡng mộ sự chân thành ở Stark để rồi vỡ mộng vì sự tha hóa của y.

Nếu như King’s dựa trên một nhân vật có thật (Huey Long, thống đốc bang Louisiana từ 1928-1932) thì President’s là bảy tháng đầu tiên của cuộc điều tra chấn động nhất lịch sử nước Mỹ: vụ Watergate. Ở đây, ta sẽ bắt gặp hai gương mặt lẫy lừng, Redford và Hoffmann, trong vai cặp phóng viên mới vào nghề chuẩn bị là tác nhân quan trọng khiến Nixon phải từ chức năm 1974.

Xem King’s, ta sẽ hiểu thêm khá nhiều về nền chính trị Mỹ thuở sơ khai – thời kỳ của những cuộc vận động tranh cử tổ chức ngay ở ga xe lửa (whistle-stop tour). Cái cách Stark leo lên đỉnh cao danh vọng chính là căn cốt của giấc mơ dân chủ Mỹ: bất kể anh là ai, chỉ cần thuyết phục được người dân, anh sẽ thắng, dù cơ hội ấy có hoang đường đến mấy. Đây là lý do khiến 54 năm sau ngày Rosa Parks bị bắt vì không nhường chỗ cho người da trắng trên xe buýt, một người da màu đã đắc cử Tổng thống Mỹ. Nhưng cũng chính King’s lại đặt ra một câu hỏi lớn: làm thế nào để ngăn chặn cái viễn cảnh đáng sợ “quyền lực tuyệt đối sẽ sa đọa tuyệt đối,” điều đang xảy ra trên đất Mỹ ngay lúc này? Và cũng chính King’s đặt ra câu hỏi về vai trò và trách nhiệm của báo chí đối với tiến trình sa đọa ấy. Không phải tự nhiên họ của tay nhà báo lại là Burden (gánh nặng). Ban đầu Jack cố gắng giữ vai trò vô can của một người quan sát, nhưng dần dà anh đã bị cuốn vào vòng xoáy và trở thành công cụ tiếp tay cho Stark. Nhìn bằng lăng kính lý tưởng, người ta hy vọng đây là lý do thực sự khiến Twitter chống lại Trump –  họ không muốn thành công cụ thao túng dư luận và công kích đối thủ của đương kim Tổng thống.

Không chỉ Burden, mọi người đều có trách nhiệm khi trực tiếp đồng lõa hay gián tiếp tiếp tay cho Stark. Đó là Sadie, cựu phóng viên và trợ lý của Stark. Đó là Anne, người yêu Stark hay đúng hơn là yêu lý tưởng của ông ta. Và đó là gia tộc Stanton, vì đã hậu thuẫn cho Stark bằng uy tín chính trị nhiều đời của mình. Thế nên, nếu nhìn vào hiện tại, không khó để nói rằng tình cảnh thê thảm hiện giờ là cái giá nước Mỹ phải trả khi bốn năm trước chính họ đã bỏ phiếu đưa Trump lên làm Tổng thống.

Nếu người Mỹ xem King’s vào lúc này hẳn họ sẽ hoang mang hơn bao giờ hết. Thật ra nỗi hoang mang ấy đã tới từ rất sớm: gõ “All the King’s men” và “Donald Trump” vào ô tìm kiếm của Google, sẽ có 27.500 kết quả, trong đó có những bài viết từ 2016. Nói cách khác, không ít người ngay từ đầu đã thấy trong chiến lược tranh cử dân túy của Trump nét tương đồng với những bài diễn văn rực lửa của Stark, và thấy trong hình ảnh Stark, như người khổng lồ trên ban công Tòa thị chính ngó xuống dân chúng nhỏ xíu như những quân tốt trên bàn cờ, một dự cảm không lành cho tương lai nước Mỹ. Lần này, là điện ảnh đã bước vào đời thực, thậm chí tồi tệ hơn, vì ít ra Stark còn khởi đầu là một người tử tế.

Sau mọi sa đọa ở Stark, cái kết của King’s chỉ càng làm khán giả thêm bế tắc vì không tìm ra lời giải cho bài toán mang tên nền dân chủ Mỹ. Trong khi đó, President’s mang đến một cảm xúc khác. Nếu chất noir của King’s là ẩn dụ về bóng ma đen tối của cuộc Đại suy thoái 1929-1933, thì những khuôn hình của President’s cũng u ám, mịt mùng như không khí chính trị nước Mỹ năm 1972. Nhưng mỗi khi ống kính tìm đến với tòa soạn Washington Post, tất cả lại sáng lên, tuy mới chỉ là ánh sáng trắng lạnh của đèn huỳnh quang. Anh sáng ấy đại diện cho sự minh bạch của báo chí, như ngọn hải đăng lẻ loi soi tỏ những âm mưu chính trị chằng chịt bủa vây Washington D.C. dưới triều đại Nixon. Chẳng rõ Ban biên tập tờ báo gần đây có xem lại phim này chăng, nhưng kể từ 2017, lần đầu tiên trong lịch sử 140 năm của mình, Washington Post đã có một tuyên ngôn chính thức: Democracy Dies in Darkness.

Nhân vật chính trong President’s không phải là Bob Woodward và Carl Bernstein, dù họ thực sự là cặp bài trùng của vụ Watergate, mà là người lính gác tên là Báo chí. Lần đầu đụng nhau, Bernstein tự ý sửa bản thảo của Woodward. Bị chất vấn, anh nói, nếu cậu thấy bản cậu viết hay hơn, ta sẽ nộp bản đó cho tòa soạn. Xem xong, Woodward thừa nhận bản sửa của Bernstein tốt hơn. Một tình tiết nhỏ, song lại nói lên rất nhiều về nghề báo: trong sự mạch lạc báo chí không có chỗ cho tự ái cá nhân, điều duy nhất anh có thể làm là viết, viết, rồi viết lại, đến khi đạt thì thôi. cái đạt ấy không phải dựa trên tiêu chí riêng của Bob hay Carl, cũng không phải của Ben Bradlee, Tổng Thư ký Tòa soạn. Đó là độc lập, khách quan và đầy đủ căn cứ; và như con chó ngao ba đầu trong thần thoại, Bradlee chỉ cho phép những phóng sự đi qua chừng nào chúng đảm bảo cả ba yếu tố ấy. Sự khắt khe của Bradlee khiến cả khán giả cũng nản lòng mỗi khi Bob và Carl bị từ chối, tiu nghỉu cầm bản thảo lê bước về bàn mình như chó bị cắt tai (triết lý làm báo của Bradlee, theo lời họ, là “mũi sục xuống đất, mông chổng lên trời, từng bước tiến tới tương lai”). Nhưng, vẫn con chó già ấy, ở thời khắc sinh tử, khi hai gã học trò mắc sai lầm trí mạng, lại là người giương tấm khiên vững chãi nhất để bảo vệ đồng nghiệp: “We stand by our story.”[1]

President’s không phải là khúc ca khải hoàn của nghề báo. Phần lớn bộ phim, tâm thế của Bob và Carl chủ yếu là của kẻ mắt sáng phải đi trong bóng tối: dò dẫm và bế tắc, thậm chí hoài nghi năng lực bản thân. Xen kẽ mạch cảm xúc ấy là những giây phút lo sợ cho tính mạng mình, nản lòng vì thất bại, ăn năn vì phạm sai lầm. Nhưng sau cùng, bằng sự lì lợm của chó săn, bằng cách kiên trì gõ cửa từng nhân viên tham gia chiến dịch tranh cử của Nixon hòng thuyết phục họ chia sẻ thông tin và miệt mài theo dấu dòng tiền, cả hai đã lần ra dấu vết dẫn về Nhà Trắng.

So với King’s, những ngày tháng này, President’s còn được người Mỹ nhắc đến nhiều hơn. Phần vì nó mới hơn. Phần vì câu chuyện Watergate có thật và gợi lên nhiều liên tưởng. Phần vì Washington Post  một lần nữa lại đứng trên đầu chiến tuyến, đối diện với chính quyền. Nhưng quan trọng hơn cả, vì nó đem lại cho người ta hy vọng. Rằng bất chấp mọi đổi thay của thời đại và công nghệ, bất chấp mọi dọa dẫm và kiềm tỏa, báo chí sẽ giữ được sự độc lập của mình, và cùng với nó là thứ quyền lực khách quan đủ sức hạ bệ cả một chính quyền./.



[1] Bốn tháng sau khi bắt đầu điều tra vụ Watergate, Washington Post đăng bài trên trang nhất khẳng định Chánh Văn phòng Nhà Trắng Bob Haldeman kiểm soát quỹ đen cấp tiền cho vụ đột nhập vào trụ sở đảng Dân chủ. Dù điều này là chính xác, vào thời điểm đó Bob và Carl mắc sai lầm sơ đẳng: không kiểm chứng kỹ nguồn tin, bởi vậy không đủ bằng chứng hậu thuẫn cho cáo buộc này. Trước sự phản pháo dữ dội của Chính quyền, Ben Bradlee đã đưa ra tuyên bố “Quan điểm của chúng tôi trước sau như một.”

Friday, January 3, 2020

Mười năm

 

Mười năm không phải là quãng thời gian quá dài với một đời người. Càng không phải là dài với một ngành công nghiệp như điện ảnh. Nhưng điện ảnh mười năm qua quả thật đã rất nhiều vật đổi sao dời. Cả trên thế giới. Lẫn ở Việt Nam. Mặc dù hơi sớm, nhưng bài viết này vẫn muốn nhân dịp cuối năm cùng độc giả nhìn lại những đổi thay xảy ra trên, trước và cả phía sau màn bạc một thập niên trở lại đây.

Siêu anh hùng giành ngôi bá chủ

Thành công của X-men (2000) hay Spider-Man (2002) sớm báo hiệu một tương lai huy hoàng cho dòng phim siêu anh hùng. Nhưng phải tới khi Disney mua lại Marvel Studios cuối 2009 thì điện ảnh-comic mới thật sự lên ngôi. Sau một thập niên, Disney đã gây dựng nên một Vũ trụ Điện ảnh Marvel rộng lớn với 23 phim chiếu rạp và tổng doanh thu 22.6 tỉ USD, chưa kể các TV series. Có thể nói quãng đời niên thiếu của một đứa trẻ sinh năm 2000 bắt đầu cùng Ironman (2008) và kết thúc ở Avengers: Endgame (2019). Dù muộn màng hơn và kém thành công hơn,, DC cũng đã kịp tạo ra một vũ trụ của riêng mình với bảy bộ phim. Bên cạnh 30 gã khổng lồ này, những bộ phim khác, kể cả Hollywood chứ chưa nói tới các nền điện ảnh khác, như những cậu bé tí hon nếu xét về kinh phí, doanh thu lẫn độ phủ sóng truyền thông. Có thể nói mười năm qua điện ảnh thế giới đã sống dưới cái bóng của comic, dù muốn hay không. Chính sự thống trị tuyệt đối ấy đã làm một gương mặt lão làng như Martin Scorsese phải chán ghét thốt lên rằng đấy không phải là điện ảnh, mà là một thứ theme-park. Và dĩ nhiên, sẽ có rất rất nhiều người không đồng ý với ông.

Streaming lên ngôi

Với sự bùng nổ của Internet băng thông rộng, DVD và thậm chí cả Bluray đã trở thành quá khứ. Xem phim online đã trở thành xu thế. Năm 2007, Netflix bắt đầu thử nghiệm dịch vụ streaming, và sau mười năm đã có 120 triệu người dùng tại hơn 180 quốc gia (trừ Trung Quốc). Tất nhiên, không chỉ có mình Netflix. Những ông lớn trong làng công nghệ đều có dịch vụ streaming của riêng mình: từ Apple iTunes của Apple đến Google Play Movies & TV và Amazon Prime Video. Không chỉ hấp dẫn những đại gia, thị trường streaming còn thu hút những công ty nhỏ hơn với thế mạnh là nội dung nội địa – có thể kể tới Fim+, iflix hay FPT Play tại Việt Nam. Những những con cá mập của làng streaming như Netflix không dừng lại ở chỗ chiếu phim của người khác, họ còn tự sản xuất nội dung và đã trở thành những thế lực thực sự, cạnh tranh quyết liệt với các studio truyền thống. Dù chỉ mới sản xuất original series đầu tiên (House of Cards) năm 2013, đến 2018 ước tính trên Netflix đã có 700 series tự sản xuất thuộc đủ thể loại, trong đó khoảng 80 series bản địa (không nói tiếng Anh). Chỉ riêng 2019, Netflix ra mắt 73 phim truyện – gấp bốn lần con số cùng kỳ của Warner Bros.

Sự giao thoa của truyền hình và điện ảnh

Một lần nữa, công nghệ lại đóng vai trò then chốt trong xu thế này. Trước đây, khi ti vi chỉ có kích thước 14 inch và phân giải SD, trải nghiệm khi xem phim tại nhà và ngoài rạp khác nhau một trời một vực. Ngày nay, khi màn hình ti vi ngày càng lớn và phân giải 4K đã thành chuẩn mực, khi máy chiếu và rạp hát tại gia không còn đắt đỏ, khoảng cách giữa truyền hình và điện ảnh đang xích lại gần nhau. Nhà sản xuất sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn cho phim truyền hình. Mười năm bá chủ của series Game of Thrones là minh chứng rõ nét nhất, khi mỗi tập phim được đầu tư 10 triệu USD – con số mà các bộ phim độc lập phải mơ ước. Không dừng ở kinh phí hay trải nghiệm thị giác, chất điện ảnh trong phim truyền hình ngày càng đậm nét, đến mức nếu ngẫu nhiên mở ti vi, ta khó mà đoán được mình đang xem là phim chiếu rạp nay được phát trên truyền hình, hay là phim truyền hình thực sự. Đã có bộ phim những bộ phim giành Oscar mà chỉ được phát hành hạn chế ngoài rạp, còn đa số khán giả đều xem qua tivi như Roma của Netflix hồi năm ngoái, và có thể là The Irishman của năm nay.

Tương lai nào cho phim độc lập?

Khi nhìn lại một thập niên vừa qua, đây là một câu hỏi rất khó trả lời. Năm 2009 Canon ra mắt 5D mark II, chiếc máy ảnh full-frame có tính năng quay phim đầu tiên. Chưa bao giờ giấc mơ điện ảnh lại trở nên gần gũi với các đạo diễn indie cả về mặt kỹ thuật lẫn kinh phí như thế (năm 2012, Dành cho tháng Sáu, phim indie đầu tiên quay bằng 5D mark II của Việt Nam đã ra mắt khán giả). Cùng với phần cứng giá phải chăng là những phần mềm như Adobe Premiere Pro hay Final Cut Pro, cho phép các nhà làm phim xử lý hậu kỳ với chi phí tối thiểu. Giải Oscar của Moonlight (2017) cũng là niềm hy vọng cho giới làm phim độc lập, bởi nó chứng tỏ thành công không phải là bất khả với ngân sách khiêm tốn 1,5 triệu USD (chưa bằng 30 giây quảng cáo trong Lễ trao giải của Viện Hàn lâm).

Dẫu công nghệ cho phép điện ảnh độc lập bảo lưu tiếng nói của mình, tiếng nói của phim thương mại, nhất những bom tấn, lại rền vang hơn bao giờ hết, lấn át không thương tiếc những giọng nói nhỏ bé hơn. Trong khi số phòng chiếu ở Việt Nam tăng từ gần 100 năm 2009 lên hơn 900 sau 10 năm, tiền đề để lần lượt Captain Marvel rồi Avengers: Endgame lập kỷ lục phòng vé, thì rạp phim nghệ thuật duy nhất ở Hà Nội, Cinematheque, đã nói lời vĩnh biệt với người yêu điện ảnh năm 2016, sau 12 năm hoạt động.

Trong một diễn biến khác, công nghệ (vâng, lại là công nghệ) streaming đã mang lại cho phim độc lập một cơ hội chưa từng có. Trước giờ, đến được với khán giả luôn là cuộc chiến tuyệt vọng của phim độc lập, nhưng streaming đã khiến điều đó trở thành đơn giản. Nhờ Netflix, một bộ phim hoạt hình kiểu I Lost My Body trước đây chỉ có thể công chiếu ở các liên hoan phim như Annecy thì nay có thể đến với hàng triệu người xem sau chỉ một ngày.

Một lục địa nổi lên từ đáy biển

Hình ảnh như thể từ phim viễn tưởng này có lẽ là ẩn dụ thích hợp nhất để miêu tả về sự trỗi dậy của thị trường Đại lục mười năm qua. Từ chỗ đứng thứ tám thế giới năm 2007 về quy mô thị trường, Trung Quốc chỉ mất năm năm để vượt mặt Nhật, chiếm vị trí thứ hai. Và với doanh thu 10 tỉ USD năm 2019 nước này được dự báo sẽ soán ngôi đầu của Bắc Mỹ chỉ trong vài năm tới. Thực tế ấy ảnh hưởng sâu sắc tới mọi khía cạnh của ngành công nghiệp celluloid – khi Trung Quốc vừa là khán giả vừa là nhà đầu tư, Hollywood không thể không chiều chuộng họ. Do đã có một bài viết riêng khá dài về điện ảnh Đại lục trên Tuổi Trẻ cuối tuần số ra ngày 20.10, xin được dừng ở đây, để chuyển sang điểm lại những dấu ấn lớn của điện ảnh trong nước thời gian qua.

Điện ảnh của mọi nhà

Xét từ góc độ kinh tế, mười năm qua thị trường trong nước phát triển mạnh mẽ không kém gì Trung Quốc, chỉ là ở quy mô nhỏ hơn. Tốc độ tăng trưởng vũ bão và những kỷ lục doanh thu phòng vé lần lượt bị phá đã nói lên điều đó. Mười lăm năm trước, cineplex là đặc quyền chỉ của Hà Nội và Sài Gòn. Giờ đây, người dân các tỉnh cũng có thể thưởng thức điện ảnh với chất lượng không thua gì thủ đô giàu đẹp. Một điểm độc đáo nữa là sự bùng nổ của mô hình chung cư kết hợp với trung tâm thương mại khiến rạp chiếu phim thực sự trở thành một tiện ích tại gia của nhiều gia đình, khi chỉ cần đi xuống tầng dưới là gia chủ đã có thể xem bộ phim mình mong đợi. Thế nhưng, dẫu điện ảnh đã trở thành một sản phẩm tiêu dùng thường nhật, truyền thông Việt vẫn chưa hình thành được một cơ chế đánh giá chất lượng phim một cách quy củ. Đến giờ, khán giả vẫn chưa biết phải tìm đến đâu để nhận được sự tư vấn đáng tin cậy về chất lượng của một bộ phim. Nói cách khác, phê bình điện ảnh phục vụ đại chúng vẫn hoàn toàn vắng bóng ở xứ sở này.

Sự cáo chung của điện ảnh nhà nước

Nếu có gì đáng buồn mà cũng đáng vui nhất suốt mười năm qua thì chắc hẳn đó là cái chết của Hãng phim truyện Việt Nam. Đáng buồn thì rõ rồi. Nhưng sao lại đáng vui? Đáng vui vì nó đặt dấu chấm hết, tuy rất tàn nhẫn và nhiều khuất tất, cho một nền điện ảnh bao cấp, làm phim theo đơn đặt hàng và hoàn toàn không có rủi ro vì không phải lo lỗ vốn. VFS không chết năm 2016 khi bị một con buôn đích thực là Vivaso mua lại, nó đã chết ngay từ 2010 khi bị bứt khỏi bầu sữa mẹ có tên là ngân sách nhà nước.

Bóng ma kiểm duyệt

Điện ảnh nhà nước có thể đã chết đi, nhưng bóng ma của nó vẫn dật dờ ám ảnh người làm nghề. Sau nhiều phấn khởi đầy mơ mộng về một thời kỳ mới vừa mở ra cho điện ảnh, sự kiện Bụi đời Chợ Lớn bị cấm chiếu năm 2013 nhắc cho tất cả nhớ rằng lưỡi dao kiểm duyệt chưa lúc nào không lơ lửng trên đầu họ. Và mới đây thôi, sự kiện Ròm bị cấm dự Liên hoan phim Busan càng củng cố sự thật đó: Censorship is here to stay! Scandal của Everest Người tuyết bé nhỏ, nếu có chút gì tích cực, thì đó là việc nó phơi bày sự vô năng của một cơ chế lẽ ra nên được xếp xó từ rất lâu rồi.

Biên kịch, anh ở đâu?

Cùng với nó là sự xuất hiện của một thế hệ đạo diễn/quay phim trẻ, giàu năng lực và được đào tạo bài bản, trong nước có mà Việt kiều cũng có. Phim Việt bởi thế đã hết lâu rồi những quê mùa ngây ngô về kỹ thuật. Nhưng điều cốt lõi nhất của điện ảnh – nghệ thuật kể chuyện – thì vẫn là một khoảng trống chưa thể lấp đầy. Đa số các phim thành công hoặc là remake từ phim Hàn (Em là bà nội của anh, Tháng năm rực rỡ, Anh trai yêu quái) hoặc là chuyển thể từ một tác phẩm văn học được yêu thích (mà thường là Nguyễn Nhật Ánh). Sau mười năm, người yêu điện ảnh vẫn đang chờ đợi một câu chuyện xuất sắc và nguyên bản, đủ sức lay động người xem đến tận đáy lòng, mà không cần đến mọi màu mè hoa dạng của kỹ xảo, của marketing, và của cả những thủ thuật tạo scandal. Tiếc rằng ngày đó vẫn chưa đến. Với điện ảnh Việt Nam.

Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 1/2020