Monday, October 30, 2023

Flirting Fontane

Khi nói đến Bố già ở Việt Nam thì một cuộc tranh cãi thường gặp sẽ nổ ra xung quanh các bản dịch. Fan của Ngọc Thứ Lang đông nhất. Thứ đến là fan của Đoàn Tử Huyến. Hay đúng hơn là anti-fan của Ngọc Thứ Lang. Thi thoảng cũng có người thích bản Đặng Phi Bằng.

Cuối tuần rảnh rỗi ngồi xem hai bản dịch, cũng thấy khá nhiều điều thú vị.

Khi đọc Bố già, đoạn tôi thích nhất lại không liên quan đến Vito hay Michael. Mà là đoạn Johnny Fontane đưa em Sharon Moore về nhà chơi. Một phần có lẽ vì tôi mê những crooner như Frank Sinatra, mà Johnny thì được khá nhiều người đồn là lấy nguyên mẫu từ Frank.

Do vậy nên tôi chọn đoạn này để đối chiếu. Thực ra không chỉ đơn giản là đối chiếu mà còn để thưởng thức lại một đoạn văn hay, được Puzo tả rất khéo léo tinh tế, xứng đáng gọi là tuyệt tác về nghệ thuật à ơi, và cả về đạo hạnh của một gã lãng tử phong tình. Bữa tối của anh ả thật ra giống một ván cờ, mỗi người đều có tuyệt chiêu, và buồn thay cuối cùng cả hai đều thất bại.

Do không có bản cứng nên tôi dùng tạm các bản ebook trên mạng, hy vọng là đúng và đầy đủ. Nếu có chỗ nào thiếu hoặc không chính xác dẫn đến nhận định sai thì mong bà con chỉ giáo.

 

His invitations to dinner were always famous and had the force of royalty and of course she said yes.

NTL: Johnny Fontane mời về nhà chơi thì còn hân hạnh nào bằng!

ĐTH: Được Johnny Fontane mời về nhà thì còn vinh hạnh nào bằng.

Thực ra câu này NTL dịch thiếu ý đầu tiên: những lời mời ăn tối của Johnny vốn nổi tiếng khắp Hollywood. Ý câu này là bữa tối chỉ là tiền đề cho bữa chịck. Văn phong của NTL thường lược dịch, nên chuyện này cũng không có gì là lạ. Cái lạ là bản ĐTH cũng gần như giống hệt và cũng lược bỏ y như vậy.

 

He made a little small talk with her, found out about what she had been like as a kid, whether she had been a tomboy or boy crazy, whether she had been homely or pretty, lonely or gay. He always found these details touching, it always evoked the tenderness he needed to make love.

NTL: Hai đứa nói chuyện tâm tình, chuyện lăng nhăng… toàn những chuyện ngày xưa chuyện xấu đẹp, vui buồn…

ĐTH: Hai đứa nói chuyện lăng nhăng không đầu không đũa, hết chuyện sắc đẹp lại chuyện vui buồn...

Tương tự, đoạn này NTL lược khá nhiều. Kỹ thuật tán gái của anh Johnny là tỏ ra quan tâm đến em, hỏi chuyện em hồi bé ra sao, nghịch như con trai hay mê trai, nhu mì hay xinh xắn, hòa đồng hay cô độc. Nhưng gã làm vậy không đơn giản để lấy cảm tình với gái, mà vì gã cần cái đó để thấy gần gũi, hiểu em hơn, từ đó mới mềm lòng, để gợi hứng trước khi vào cuộc yêu (câu này hai bản đều bỏ, chắc vì tự kiểm duyệt do trái thuần phong mỹ tục quá). Nhưng đây là cái bỏ rất đáng tiếc, vì nó hé lộ bi kịch tâm lý của Johnny, sau đó sẽ được Puzo phơi bày trọn vẹn và khá tàn nhẫn.

Cái lạ là bản ĐTH cũng lược y hệt như bản NTL không khác chút nào.

 

He kissed her on the lips, a cool friendly kiss, and when she kept it that way he left it that way.

NTL: Johnny khe khẽ hôn môi. Em nhận cái hôn nhưng không thích tiến thêm thì tạm thời cứ sơ sơ mé ngoài vậy đó.

ĐTH: Johnny khẽ hôn môi. Cái hôn thì em nhận, nhưng chỉ sơ sơ vành ngoài thế thôi, tiếp theo xin miễn.

NTL lại lược một chút, nhưng vẫn giữ được tinh thần bản gốc: Johnny chủ động và không hề vội vàng. Em chưa vồ vập thì gã cũng thong thả. Câu của ĐTH dịch như vậy bị sai về ẩn ý: hóa ra Sharon chủ động. Tất nhiên Sharon có chủ động (đọc tiếp sẽ thấy), song cái chủ động của em vẫn nằm trong sự chủ động của chính Johnny. Dịch như thế này bị quá tay, nói cách khác là cầm đèn chạy trước ô tô, vì đây mới là những giây phút đầu tiên của cuộc à ơi, nếu cô bé đã quyết liệt như thế thì đến đây là giải tán luôn còn cần gì phải bàn nữa.

 

When he had been younger, he had done just such things (singing) and the result had always been stagy, the girls trying to look sexy and melting, making their eyes swim with desire for an imagined fantasy camera.

NTL: Johnny bật cười. Hồi còn trai trẻ… cái mục “anh hát em nghe” này nó biểu diễn biết bao nhiêu lần! Giọng cao cất lên là các em rạo rực bằng thích, giở hết điệu bộ màu mè con gái, mắt sáng lên như đâu đây có sẵn máy quay phim.

ĐTH: Johnny bật cười. Hồi nào cái khoản anh hát tặng em này hắn đã diễn mãi rồi. Cái giọng tenor của hắn cất lên là các em đã nực cả người, õng ẹo giở hết điệu bộ, mắt sáng như đèn ô tô, cứ như sắp lên phim không bằng.

Cơ bản không có gì đặc biệt, ngoài một chi tiết: bản gốc không hề nói đến chất giọng của Johnny. NTL dùng chữ “giọng cao,” còn ĐTH dùng hẳn “giọng tenor.” Những sự trùng hợp từ đầu đến giờ làm tôi có cảm giác ĐTH không dịch thẳng từ bản gốc mà dựa vào bản của NTL để biên tập lại.

 

He got up to give her a refill on her brandy glass, gave her a gold-monogrammed cigarette

NTL: Nó đứng dậy rót rượu thêm cho em, đưa điếu thuốc chữ vàng bật lửa cho em mồi.

ĐTH: Hắn đứng dậy rót thêm rượu cho cô bé, châm cho cô ta điếu thuốc lấy trong hộp thuốc khắc chữ vàng.

Gold-monogrammed cigarette là thú chơi sang của giới nhà giàu ngày xưa, là phủ vàng vào đầu điếu thuốc và khắc chữ viết tắt tên của chủ nhân (monogram). Câu này NTL dịch đúng còn ĐTH dịch sai. Câu hỏi đặt ra là nếu dịch từ bản gốc thì làm sao mà sai cái đơn giản thế được? Hay là ĐTH đọc bản NTL và cảm thấy điếu thuốc chữ vàng vô lý quá, chắc phải là hộp khắc chữ vàng mới đúng, nên sửa lại như vậy chăng?

 

The last two years had been hell on his ego, and he used this simple way to restore it, sleeping with a young fresh girl for one night, taking her to dinner a few times, giving her an expensive present and then brushing her off in the nicest way possible so that her feelings wouldn’t be hurt.

NTL: Vì hai năm nay nó quá phung phí sức lực, cần có hơi men hỗ trợ. Hai năm nay cứ thấy em nào vừa mắt là mời đi ăn nhậu du dương vài hôm, rồi tặng em món quà đích đáng để… cho em de cái một, khỏi lộn xộn.

ĐTH: Đó là vì hai năm nay Johnny đã phung phí quá nhiều sức lực, thấy em nào sạch nước một tí là chớp ngay, du dương vài hôm, tặng em một món quà rồi cho đi tàu suốt.

Đoạn này cả hai đều dịch sai câu đầu. Vấn đề của Johnny hai năm vừa rồi không phải (hoặc không đơn giản) là yếu sinh lý, vì yếu sinh lý thì làm sao mà liên tục đi mò gái trẻ như câu sau được. Hai năm rồi Johnny bị mất giọng, bị vợ coi thường, không đắt show như trước (phải nhờ Bố già vận động xin vai của Woltz), bởi vậy lòng tự tôn (ego) của gã bị tổn thương nặng nề (hell). Cho nên gã lấy việc đi chơi với các em gái trẻ như một cách để khôi phục tự tôn (restore it). Tất nhiên tâm lý ấy cũng ảnh hưởng đến mức độ hưng phấn của gã, song gói gọn vấn đề vào YSL thì hoàn toàn sai. Tiếp đó cả hai bản dịch đều bỏ qua câu cuối, do vậy không làm toát lên được sắc thái “nice guy” của Johnny: gã cố lựa cách mềm mại ngọt ngào êm ái nhất để chia tay, cốt để các em khỏi tổn thương.

 

NTL: Bàn tay Johnny tự động chạy theo đường cũ, quen lệ rồi… Dĩ nhiên phản ứng mỗi đứa mỗi khác. Có đứa làm như không hề hay biết, chẳng hề cảm thấy có sự đụng chạm giữa lúc đang hôn mải miết đam mê. Có đứa giật mình, uốn cong người. Có đứa vùng cho anh vài cái tát tai, nhất là hồi Johnny còn chưa có tên! Đó là cả một công trình, cả một kĩ thuật.

Cứ bảo NTL giang hồ Chợ Lớn thế nào mà đọc đến đoạn này cũng đỏ mặt, vội vàng dịch quấy quá cho xong, cắt đi bao nhiêu chi tiết. Song ít ra NTL vẫn còn dịch gần đủ. Bản ĐTH lẫn bản Đặng Phi Bằng đều bỏ cả. Thôi, thời các cụ, khó tránh.

 

She was saying something very sweetly, very lightly. “It’s not that I don’t like you, Johnny, you’re much nicer than I thought you’d be. And it’s not because I’m not that kind of a girl. It’s just that I have to be turned on to do it with a guy, you know what I mean?”

Johnny Fontane smiled at her. He still liked her.” And I don’t turn you on?”

She was a little embarrassed. “Well, you know, when you were so great singing and all, I was still a little kid. I sort of just missed you, I was the next generation. Honest, it’s not that I’m goody-goody. If you were a movie star I grew up on, I’d have my panties off in a second.”

NTL: Giọng Sharon thật ngoan và dễ thương:Không phải tại em không thích anh đâu. Anh dễ thương hơn em tưởng nhiều! Cũng không phải em sợ hay chưa thử, nói thực đấy. Em phải bốc mới thấy hứng, còn không thì…

Và anh không làm em bốc?Johnny mỉm cười hỏi, coi bộ chẳng có gì buồn hết làm con nhỏ lúng túng. “Sự thực thì hồi anh lên… em còn nhỏ xíu. Em mê giọng ca, mê anh đóng phim lắm chớ? Mê lắm lắm… nhưng có điều mình không cùng một thế hệ. Phải chi mình cùng một trang lứa thì xong ngay.

ĐTH: — Không phải tại em không thích anh đâu. Anh dễ thương hơn em tưởng nhiều đấy? Cũng không phải em sợ hay còn bỡ ngỡ chưa quen, chẳng qua em không thấy hứng, - cô bé nói thỏ thẻ.

Anh đúng là thằng vét đĩa, phải không?Johnny hỏi đùa, xem ra không có vẻ gì thất vọng lắm làm cho Sharon lúng túng.

Thật ra lúc anh đang lên thì em còn bé, cô ta nói. Em mê giọng hát của anh, mê anh đóng phim lắm. Có điều không phải lứa chứ không thì xong ngay.

Đoạn này phải nói là NTL dịch xuất sắc. Bẽn lẽn ra bẽn lẽn, trìu mến ra trìu mến, độ lượng ra độ lượng. Câu “thằng vét đĩa” của ĐTH tưởng hay mà thực ra là hỏng. Johnny Fontane là loại thế nào? Cả ngàn em gái đã qua tay gã. Gái nào gã cũng gặp rồi. Câu “And I don’t turn you on” của gã vừa trực diện, thẳng thắn nhưng vẫn bao dung và không hề có tí tự ái nào, chỉ hơi đùa bỡn làm khó em gái. Dùng một thành ngữ hơi có chút châm biếm như ĐTH, thực ra lại là rắc gia vị quá tay.

 

He didn’t like her quite so much now. She was sweet, she was witty, she was intelligent. She hadn’t fallen all over herself to screw for him or try to hustle him because his connections would help her in show biz. She was really a straight kid. But there was something else he recognized. It had happened a few times before. The girl who went on a date with her mind all made up not to go to bad with him, no matter how much she liked him, just so that she could tell her friends, and even more, herself, that she had turned down a chance to screw for the great Johnny Fontane. It was something he understood now that he was older and he wasn’t angry. He just didn’t like her quite that much and he had really liked her a lot.

NTL: Nghe nó nói, Johnny không thấy ham mấy nữa. Con nhỏ duyên dáng, láu lỉnh thật. Nó không mê anh Johnny đến độ hiến dâng hay sẵn sàng nạp thuế thịt để tiến thân sau này. Nó là thứ đàng hoàng. Nó không như con nhỏ hồi nào, đi với nhau lu bù nhưng đã nuôi sẵn định ý. Có ham đến mấy cũng từ chối để tự hào với mình hay với chúng bạn: “Biết sao không? Johnny Fontane mê tao, gạ tao quá xá… nhưng tao thèm vào!”

ĐTH: Nghe vậy Johnny liền sang số lùi. Cô bé xinh xắn, nhí nhảnh thật. Cô là loại gái chính chuyên, không phải dễ dàng hiến thân hay sẵn sàng nộp thuế thịt để sau này còn leo, không như bọn cứ bám kè kè bên hắn nhưng chỉ để lợi dụng chứ chẳng có tình nghĩa quái gì cả, cũng không phải làm cao để sau này đi khoe: “Johnny Fontane xin chết nhưng tao thèm vào".

Đoạn này NTL dịch sai một ý mấu chốt. Johnny nhận ra Sharon giống một số em gái gã từng gặp: đến cuộc hẹn với quyết tâm từ chối gã để lấy số má và ve vuốt lòng tự tôn của chính mình. Chứ không phải là em Sharon này khác mấy em gái “đã nuôi sẵn định ý” như NTL dịch. Có như vậy thì nó mới hợp với đoạn sau khi Johnny đùa là anh sẽ viết giấy xác nhận cho em về vụ này để em được thỏa lòng. Lạ thay, ĐTH cũng dịch sai tương tự.

 

NTL: Cảm ơn anh! Mai sau về già biết đâu chừng em chẳng có quyền kể lại cho đám con cháu nghe rằng ngày xưa đã có lần tao và Johnny Fontane hai đứa ở với nhau một phòng gần trọn đêm và chẳng có gì xảy ra.

Chẳng có gì xảy ra vì tao nhất định không chịu.” “Nhất định… là chúng nó khỏi tin! Hứng chí Johnny khôi hài, “Không tin thì để anh cấp cho em cái giấy chứng nhận? Viết tay đàng hoàng.Con nhỏ lắc đầu cười. Johnny tiếp, “… Hay có thằng nào dám nghi ngờ lời em thì em phôn cho anh một cú? Anh sẽ vạch mặt chúng! Anh sẽ bảo rằng anh đã rượt bắt em cả đêm trong phòng mà em nhất định không chịu là không chịu.

Đùa quá hóa ác thật! Con nhỏ hơi nhăn mặt khiến Johnny biết ngay là đã đi quá lố. Nói như vậy có khác nào bảo thẳng nó rằng tại tao không muốn nên không thèm gạ gẫm tới, bằng không mà phải bị rơi? Hay vì mày người ngợm chẳng ra gì nên tao không thèm? Nghĩa là nếu có kể lại con cháu nghe thì phải thêm vô: “Tao còn giữ gìn được hôm đó vì Johnny coi bộ không tha thiết lắm.” Cảm thấy hơi thương hại, nó vỗ về con nhỏ, “Đùa đấy thôi em! Có phải cứ đụng gặp cô nào là làm cô ấy đâu? Có chuyện gì cần đến em cứ phôn cho anh một cú.

Sharon chỉ “Dạ” rồi rút lui.

Đoạn này không nhiều cái cần so sánh. Tôi chỉ trích lại bản NTL để mọi người tiện theo dõi diễn biến và cái kết.

Ta thấy rõ ràng đây là một ván cờ. Anh Johnny là kỳ thủ lão luyện, thân trải trăm trận. Em Sharon thì cũng như Beth Hammon trong Queen’s Gambit, mới vào nghề nhưng kỳ lực chẳng vừa. Johnny có kiểu thong thả thuận tự nhiên, binh đến tướng ngăn, ung dung coi xem em nó thế nào. Nước lên thì thuyền lên, mà nếu nước cạn thì ta về nghỉ, cũng chẳng hề gì. Anh Johnny thương em mến em chiều em, nhưng không thể để em ca khúc khải hoàn dễ dàng như thế. Em dám đơn đao phó hội thì cũng phải để lại chút gì. Và chút gì đó chính là lòng tự tôn của em. Nhưng Johnny cũng chẳng hơn gì, em về rồi để lại anh trống rỗng và hư thoát. Anh không thèm thịt mà chỉ thèm hơi người. Cho nên anh lại tìm đến tâm sự với Ginny, cô vợ cũ.

 

Tóm lại đọc xong một hồi thì thấy Ngọc Thứ Lang vẫn là Ngọc Thứ Lang mà chúng ta hằng biết. Ngôn ngữ tự nhiên, thậm chí suồng sã, không câu nệ vào bản gốc. Có chất giang hồ rõ rệt. Tuy lược bỏ chỗ này chỗ kia nhưng tinh thần câu chuyện vẫn được bảo tồn. Nói chung nếu tay không bắt giặc, tức là chỉ nhìn bản gốc mà dịch ra được như ông thì hơi bị khó đấy.

Điều bất ngờ lại là bản Đoàn Tử Huyến. Có khá nhiều chỉ dấu cho thấy bản Đoàn Tử Huyến thực ra chỉ là sửa lại bản Ngọc Thứ Lang cho giọng văn Bắc hơn và hiện đại hơn:

(i) Thường bản dịch sau bao giờ cũng “tranh hơn” với bản dịch trước bằng cách bổ khuyết những chỗ bản trước không dịch. Với NTL thì làm điều đó không khó vì NTL lược khá nhiều. Thế nhưng bản ĐTH lại không thêm gì, chỗ nào NTL không dịch thì ĐTH cũng không dịch. Như vậy khả năng là không (hoặc rất ít) đối chiếu bản gốc.

(ii) Chỗ nào NTL dịch sai thì ĐTH cũng dịch sai.

Với một người có văn tài như ĐTH thì việc sửa lại bản NTL để ra một bản dịch khác nghe cũng xuôi, cũng ổn, và vừa miệng độc giả Bắc hơn không có gì là khó. Nhưng nếu xét công lao bỏ vào bản dịch thì không đáng kể và giá trị gia tăng không nhiều. Ai thích bản này thì cứ thích thôi, nó là vấn đề khẩu vị. Nhưng nếu vì thích bản này mà phủ nhận bản NTL, hoặc ngược lại là nếu vì anti NTL mà đi ca tụng bản này, thì kể cũng hơi buồn cười.

Sunday, June 21, 2020

Bạn tốt và bút sắc

 

Nếu được hỏi sẽ chọn cuốn sách nào để tặng cho một nhà báo nhân ngày Báo chí Việt Nam, câu trả lời của tôi sẽ là Charlotte’s Web.

Câu trả lời này, hẳn sẽ làm khá nhiều người ngạc nhiên. Charlotte’s Web? Một cuốn sách dành cho thiếu nhi?

Năm hai ngàn lẻ tám, tôi đọc Charlotte’s Web lần đầu tiên, khi ngồi tại Creperie trên đường Hàn Thuyên. Khi đó, tôi đang học thạc sĩ báo chí ở Melbourne, về Sài Gòn chơi và ngồi đợi một cô gái. Tuy lúc đó chưa hề biết cô gái mình đang đợi sẽ là người phụ nữ dành cho tôi, nhưng ngay từ lúc đó, tôi đã cảm thấy đây thực sự là cuốn sách kinh điển dành cho người làm báo.

Bởi nó là cuốn sách của một bậc thầy trong nghề báo. Elwyn Brooks White, sinh năm 1899, mất năm 1985, là cây bút kỳ cựu của The New Yorker gần sáu mươi năm, là tác giả của The Elements of Style, cuốn sách nhỏ đã bán được 10 triệu bản và sau ba lần tái bản đã gần như trở thành Kinh Thánh về cách viết tiếng Anh trên đất Mỹ.

Charlotte’s Web kể về tình bạn giữa cô nhện Charlotte và chú lợn Wilbur. Khi Wilbur có nguy cơ bị ông chủ làm thịt, Charlotte đã viết chữ lên mạng nhện của mình trong nhà kho để thu hút sự chú ý của công chúng, và nhờ vậy cứu cậu thoát chết.

Trẻ con và người lớn sẽ yêu Charlotte’s Web theo cách của riêng mình, nhưng những người làm báo chắc chắn sẽ yêu cuốn sách vì thấy nghề nghiệp của mình trong đó.

Bởi tấm mạng nhện của Charlotte, dưới ngòi bút của White, đã thành ẩn dụ về báo chí và về sức mạnh khôn lường của nó: cứu mạng Wilbur và biến cậu từ một con lợn cọc thành ngôi sao ở chốn đồng quê. Charlotte chính là hình ảnh điển hình của một biên tập viên – sắc sảo, hài hước, tàn nhẫn, và có biệt tài ngôn ngữ. Khi mọi xôn xao về dòng chữ đầu tiên (SOME PIG) trên mạng nhện đã lắng xuống, Charlotte triệu tập các con vật trong nông trại để tìm chữ mới. Trước gợi ý của ngỗng (Terrific, terrific, terrific), Charlotte gọt giũa đề xuất này thành một phương án ngắn hơn, có sức nặng hơn: TERRIFIC. Đấy chẳng phải là một ví dụ kinh điển về đời biên tập đó ư? Và chẳng phải ngẫu nhiên mà vai Charlotte lại là nữ. Người bạn đời gần nửa thế kỷ của White, Katherine Sergeant, hơn ông bảy tuổi và là người tuyển mộ ông vào The New Yorker, chính là biên tập viên hàng đầu của tờ tạp chí từ khi thành lập và nhân vật chủ chốt gây dựng nên uy tín của nó ngày nay. Trong những tên tuổi từng đi qua bàn tay biên tập của bà, có thể kể đến Nabokov hay John Updike. Ở Charlotte, ta thấy bóng dáng người vợ, người chị và người đồng nghiệp của White – bài thơ đầu tiên ông viết tặng vợ sau ngày cưới là bài thơ về con nhện. Nếu nhìn lại cuộc lên ngôi của internet, chữ Web của White quả thực là một lời tiên tri chính xác từ nửa thế kỷ trước về tương lai của báo chí ngày nay.

Không dừng lại ở đó, câu chuyện chọn chữ của Charlotte còn là câu chuyện về nỗ lực của báo chí nhằm duy trì quan tâm của dư luận. Hơn ai hết, cô nhện này hiểu sâu sắc công chúng khi nhận xét “người ta tin hầu hết mọi thứ họ thấy trên báo,” nhưng cũng rất tỉnh táo khi biết vòng đời của tin tức rất ngắn ngủi, và nếu không tiếp tục thu hút được sự chú ý thì Wilbur khó lòng được an toàn. Thế nên khi mới quyết định dệt chữ thứ hai, “Terrific,” Charlotte đã sớm giao nhiệm vụ cho con chuột Templeton tiếp tục đi tìm nguồn tin cho những “số báo” sau. Chữ thứ ba được Charlotte sử dụng chính là do Templeton mang về – một mẩu quảng cáo nhặt từ bãi rác, một dụ ngôn của White, nhắn nhủ với ta rằng trong rác vẫn có thể có vàng, và không từ nào là bỏ đi cả, nếu ta biết cách dùng.

Một nguyên tắc làm báo bất di bất dịch của Charlotte là danh phải xứng với thực. Nói cách khác, Charlotte không nói láo. Những chữ cô dệt để ca ngợi Wilbur, căn bản đều phản ánh chính xác phẩm chất của cậu. Khi Wilbur còn là một con lợn còi, Charlotte dùng chữ cũng rất tiết chế. Phải tới khi cậu đã trổ mã, đã khỏe đẹp hơn, cô mới mạnh dạn dùng những chữ oách hơn. Nhưng chữ cuối cùng, then chốt, tạo đột phá, xác lập vị thế vĩnh viễn cho Wilbur trong nhà Zuckerman lại không phải là một chữ tán tụng ngoại hình, mà là một chữ hết sức khiêm nhường để ca ngợi tính cách của chú. Tuyệt chiêu chuyển bại thành thắng này hẳn sẽ là bài học đáng nhớ với mọi người làm báo. Và quả thực, cái cách Charlotte nói chuyện, cách cô điềm đạm giải nghĩa từng từ khó, bình thản nhận xét về cuộc sống, hay châm biếm bình phẩm một điều gì, tất thảy đều toát lên vẻ minh triết và lịch duyệt của một nhà báo lão thành.

Điều đặc biệt nhất ở Charlotte’s Web có lẽ là tính hiện thực đến tàn nhẫn của nó, một đặc điểm rất điển hình trong báo chí nhưng lại rất không điển hình với một tác phẩm dành cho thiếu nhi. Hiếm có câu chuyện trẻ em nào lại bắt đầu bằng một câu văn gây sốc như thế: “Bố cầm rìu đi đâu thế nhỉ?” Bắt đầu bằng nỗi ám ảnh của cái chết và kết thúc bằng một cái chết, câu chuyện đã khiến biết bao thế hệ độc giả phải thẫn thờ. Ấy thế nhưng Charlotte’s Web vẫn đứng đầu trong danh sách những cuốn sách yêu thích của trẻ em. Đó là bởi White, bằng ngòi bút điềm tĩnh của mình, đã biến cái chết thành một phần tự nhiên và tất yếu của cuộc sống. Câu chuyện của Wilbur và của Charlotte, chính là hành trình đón nhận sự thật ấy một cách hết sức bình yên. Điều thú vị là đến tận bây giờ vẫn có không ít độc giả viết thư cho White để “phàn nàn” về cái kết, và đa số là người lớn. Hóa ra, càng hiểu sự chết bao nhiêu, Wilbur cùng những độc giả nhỏ tuổi của White càng thêm yêu cuộc sống bấy nhiêu. Chỉ có người lớn là gặp khó khăn về điều đó.

Tái hiện cuộc sống như nó vốn thế là một nhiệm vụ chẳng dễ dàng gì, và White đã rất kỳ công để làm điều ấy. Lấy nhện, một sinh vật thường bị sợ hãi hơn là yêu thích, làm nhân vật chính là khởi điểm. Ông mất một năm tìm hiểu về loài nhện, tham khảo giới chuyên gia và tự mình vẽ đồ họa về chúng. Ông tiếp cận chúng bằng con mắt của một nhà khoa học chứ không phải nhà văn, và từ chối đề xuất “mỹ hóa” con nhện từ nghệ sĩ minh họa (Garth Williams), cũng như yêu cầu thay đổi cái kết từ nhà xuất bản. Câu chữ của Charlotte’s Web kết tinh cái đẹp của văn chương lẫn sự chính xác trong khoa học. Vì là câu chuyện dành cho thiếu nhi, ngôn ngữ của tác phẩm không thể quá phức tạp. Nhưng chính trong cái dung dị ấy, văn phong xuất chúng của White lại được bộc lộ đến tột cùng. Đơn giản mà thấm thía, súc tích mà biểu cảm, nghiêm cẩn song vẫn đầy nhạc tính, đó chỉ có thể là tác phẩm của một ngòi bút bậc thầy.

E. B. White đã kết thúc câu chuyện của ông bằng một câu này: Bạn tốt và bút sắc, hai cái đó phải có duyên mới gặp được. Charlotte là cả hai. Nhìn từ góc độ của độc giả, hai phẩm chất này, há chẳng phải là tinh túy của nghề báo hay sao?

Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 6/2020

Tuesday, June 9, 2020

King and President

 

Những ngày này, cuộc đối đầu không khoan nhượng giữa Trump với Twitter khiến người ta nghĩ nhiều đến mối quan hệ bội phần phức tạp giữa chính quyền với truyền thông, một thứ đặc sản rất mực Hoa Kỳ – hãy nhớ House of Cards, nơi nữ phóng viên Zoe Barnes vừa là công cụ, vừa là tình nhân, và rốt cục trở thành nạn nhân của Frank Underwood, người sau này trở thành Tổng thống.

Tất nhiên, chẳng cứ gì Mỹ, ở đâu cũng vậy thôi, truyền thông luôn va chạm với chính quyền, không ít thì nhiều. Nhưng ân oán sâu xa giữa hai thứ quyền lực hành pháp và giám sát này có thể nói đã lên đến đỉnh điểm tại xứ sở cờ hoa. Chẳng cần lên đến cấp quốc gia và cũng chẳng phải đợi đến thế kỷ 20, báo chí mới có cơ hội vẫy vùng ở Tân thế giới. Một thị trấn Viễn Tây điển hình thế kỷ 19 luôn tồn tại một tờ báo, dù nhỏ bé và khiêm tốn, lượng phát hành chỉ vài chục bản. Đó là Daily Star ở tập truyện tranh Lucky Luke cùng tên. Đó là Shinbone Star trong The Man Who Shot Liberty Valance (1962). Những tờ báo ấy là hạt giống đầu tiên của tự do ngôn luận ở xứ này. Nói như chủ bút tờ Shinbone, “Tôi là người làm báo… Chính trị gia là món chính của tôi – tôi dựng họ lên, tôi lôi họ xuống.”

Vừa dõi theo cuộc chiến giữa Trump và báo chí, vừa xem lại mấy tác phẩm kinh điển của Hollywood về đề tài này, âu cũng là một điều thú vị trong những ngày hậu Covid. Hai lựa chọn xứng đáng nhất, có lẽ là All the King’s men, câu chuyện về một chính trị gia, và All the President’s men, câu chuyện về hai nhà báo.

Khác với Trump, một tỉ phú chuyển nghề, Willie Stark trong King’s xuất thân là một con người chất phác mong ước đóng góp cho cộng đồng, nhưng biến chất từ khi dấn thân vào con đường chính trị, đặc biệt là từ khi thành thống đốc bang. Câu chuyện ấy được thuật lại qua lời kể của Jack Burden, một phóng viên ngưỡng mộ sự chân thành ở Stark để rồi vỡ mộng vì sự tha hóa của y.

Nếu như King’s dựa trên một nhân vật có thật (Huey Long, thống đốc bang Louisiana từ 1928-1932) thì President’s là bảy tháng đầu tiên của cuộc điều tra chấn động nhất lịch sử nước Mỹ: vụ Watergate. Ở đây, ta sẽ bắt gặp hai gương mặt lẫy lừng, Redford và Hoffmann, trong vai cặp phóng viên mới vào nghề chuẩn bị là tác nhân quan trọng khiến Nixon phải từ chức năm 1974.

Xem King’s, ta sẽ hiểu thêm khá nhiều về nền chính trị Mỹ thuở sơ khai – thời kỳ của những cuộc vận động tranh cử tổ chức ngay ở ga xe lửa (whistle-stop tour). Cái cách Stark leo lên đỉnh cao danh vọng chính là căn cốt của giấc mơ dân chủ Mỹ: bất kể anh là ai, chỉ cần thuyết phục được người dân, anh sẽ thắng, dù cơ hội ấy có hoang đường đến mấy. Đây là lý do khiến 54 năm sau ngày Rosa Parks bị bắt vì không nhường chỗ cho người da trắng trên xe buýt, một người da màu đã đắc cử Tổng thống Mỹ. Nhưng cũng chính King’s lại đặt ra một câu hỏi lớn: làm thế nào để ngăn chặn cái viễn cảnh đáng sợ “quyền lực tuyệt đối sẽ sa đọa tuyệt đối,” điều đang xảy ra trên đất Mỹ ngay lúc này? Và cũng chính King’s đặt ra câu hỏi về vai trò và trách nhiệm của báo chí đối với tiến trình sa đọa ấy. Không phải tự nhiên họ của tay nhà báo lại là Burden (gánh nặng). Ban đầu Jack cố gắng giữ vai trò vô can của một người quan sát, nhưng dần dà anh đã bị cuốn vào vòng xoáy và trở thành công cụ tiếp tay cho Stark. Nhìn bằng lăng kính lý tưởng, người ta hy vọng đây là lý do thực sự khiến Twitter chống lại Trump –  họ không muốn thành công cụ thao túng dư luận và công kích đối thủ của đương kim Tổng thống.

Không chỉ Burden, mọi người đều có trách nhiệm khi trực tiếp đồng lõa hay gián tiếp tiếp tay cho Stark. Đó là Sadie, cựu phóng viên và trợ lý của Stark. Đó là Anne, người yêu Stark hay đúng hơn là yêu lý tưởng của ông ta. Và đó là gia tộc Stanton, vì đã hậu thuẫn cho Stark bằng uy tín chính trị nhiều đời của mình. Thế nên, nếu nhìn vào hiện tại, không khó để nói rằng tình cảnh thê thảm hiện giờ là cái giá nước Mỹ phải trả khi bốn năm trước chính họ đã bỏ phiếu đưa Trump lên làm Tổng thống.

Nếu người Mỹ xem King’s vào lúc này hẳn họ sẽ hoang mang hơn bao giờ hết. Thật ra nỗi hoang mang ấy đã tới từ rất sớm: gõ “All the King’s men” và “Donald Trump” vào ô tìm kiếm của Google, sẽ có 27.500 kết quả, trong đó có những bài viết từ 2016. Nói cách khác, không ít người ngay từ đầu đã thấy trong chiến lược tranh cử dân túy của Trump nét tương đồng với những bài diễn văn rực lửa của Stark, và thấy trong hình ảnh Stark, như người khổng lồ trên ban công Tòa thị chính ngó xuống dân chúng nhỏ xíu như những quân tốt trên bàn cờ, một dự cảm không lành cho tương lai nước Mỹ. Lần này, là điện ảnh đã bước vào đời thực, thậm chí tồi tệ hơn, vì ít ra Stark còn khởi đầu là một người tử tế.

Sau mọi sa đọa ở Stark, cái kết của King’s chỉ càng làm khán giả thêm bế tắc vì không tìm ra lời giải cho bài toán mang tên nền dân chủ Mỹ. Trong khi đó, President’s mang đến một cảm xúc khác. Nếu chất noir của King’s là ẩn dụ về bóng ma đen tối của cuộc Đại suy thoái 1929-1933, thì những khuôn hình của President’s cũng u ám, mịt mùng như không khí chính trị nước Mỹ năm 1972. Nhưng mỗi khi ống kính tìm đến với tòa soạn Washington Post, tất cả lại sáng lên, tuy mới chỉ là ánh sáng trắng lạnh của đèn huỳnh quang. Anh sáng ấy đại diện cho sự minh bạch của báo chí, như ngọn hải đăng lẻ loi soi tỏ những âm mưu chính trị chằng chịt bủa vây Washington D.C. dưới triều đại Nixon. Chẳng rõ Ban biên tập tờ báo gần đây có xem lại phim này chăng, nhưng kể từ 2017, lần đầu tiên trong lịch sử 140 năm của mình, Washington Post đã có một tuyên ngôn chính thức: Democracy Dies in Darkness.

Nhân vật chính trong President’s không phải là Bob Woodward và Carl Bernstein, dù họ thực sự là cặp bài trùng của vụ Watergate, mà là người lính gác tên là Báo chí. Lần đầu đụng nhau, Bernstein tự ý sửa bản thảo của Woodward. Bị chất vấn, anh nói, nếu cậu thấy bản cậu viết hay hơn, ta sẽ nộp bản đó cho tòa soạn. Xem xong, Woodward thừa nhận bản sửa của Bernstein tốt hơn. Một tình tiết nhỏ, song lại nói lên rất nhiều về nghề báo: trong sự mạch lạc báo chí không có chỗ cho tự ái cá nhân, điều duy nhất anh có thể làm là viết, viết, rồi viết lại, đến khi đạt thì thôi. cái đạt ấy không phải dựa trên tiêu chí riêng của Bob hay Carl, cũng không phải của Ben Bradlee, Tổng Thư ký Tòa soạn. Đó là độc lập, khách quan và đầy đủ căn cứ; và như con chó ngao ba đầu trong thần thoại, Bradlee chỉ cho phép những phóng sự đi qua chừng nào chúng đảm bảo cả ba yếu tố ấy. Sự khắt khe của Bradlee khiến cả khán giả cũng nản lòng mỗi khi Bob và Carl bị từ chối, tiu nghỉu cầm bản thảo lê bước về bàn mình như chó bị cắt tai (triết lý làm báo của Bradlee, theo lời họ, là “mũi sục xuống đất, mông chổng lên trời, từng bước tiến tới tương lai”). Nhưng, vẫn con chó già ấy, ở thời khắc sinh tử, khi hai gã học trò mắc sai lầm trí mạng, lại là người giương tấm khiên vững chãi nhất để bảo vệ đồng nghiệp: “We stand by our story.”[1]

President’s không phải là khúc ca khải hoàn của nghề báo. Phần lớn bộ phim, tâm thế của Bob và Carl chủ yếu là của kẻ mắt sáng phải đi trong bóng tối: dò dẫm và bế tắc, thậm chí hoài nghi năng lực bản thân. Xen kẽ mạch cảm xúc ấy là những giây phút lo sợ cho tính mạng mình, nản lòng vì thất bại, ăn năn vì phạm sai lầm. Nhưng sau cùng, bằng sự lì lợm của chó săn, bằng cách kiên trì gõ cửa từng nhân viên tham gia chiến dịch tranh cử của Nixon hòng thuyết phục họ chia sẻ thông tin và miệt mài theo dấu dòng tiền, cả hai đã lần ra dấu vết dẫn về Nhà Trắng.

So với King’s, những ngày tháng này, President’s còn được người Mỹ nhắc đến nhiều hơn. Phần vì nó mới hơn. Phần vì câu chuyện Watergate có thật và gợi lên nhiều liên tưởng. Phần vì Washington Post  một lần nữa lại đứng trên đầu chiến tuyến, đối diện với chính quyền. Nhưng quan trọng hơn cả, vì nó đem lại cho người ta hy vọng. Rằng bất chấp mọi đổi thay của thời đại và công nghệ, bất chấp mọi dọa dẫm và kiềm tỏa, báo chí sẽ giữ được sự độc lập của mình, và cùng với nó là thứ quyền lực khách quan đủ sức hạ bệ cả một chính quyền./.



[1] Bốn tháng sau khi bắt đầu điều tra vụ Watergate, Washington Post đăng bài trên trang nhất khẳng định Chánh Văn phòng Nhà Trắng Bob Haldeman kiểm soát quỹ đen cấp tiền cho vụ đột nhập vào trụ sở đảng Dân chủ. Dù điều này là chính xác, vào thời điểm đó Bob và Carl mắc sai lầm sơ đẳng: không kiểm chứng kỹ nguồn tin, bởi vậy không đủ bằng chứng hậu thuẫn cho cáo buộc này. Trước sự phản pháo dữ dội của Chính quyền, Ben Bradlee đã đưa ra tuyên bố “Quan điểm của chúng tôi trước sau như một.”