Thursday, October 24, 2019

Chiến lang truyền thuyết

 

Lãnh Phong lồng lá đại kỳ vào tay và xuống tấn trên nóc xe. Hà Kiến Quốc cùng Rachel giữ chặt chân anh. Dáng đứng của Lãnh gợi nhớ biểu tượng Mosfilm thuở nào. Lá cờ bay phần phật khi đoàn xe diễu qua vùng chiến sự dưới ánh mắt kính cẩn của quân Chính phủ lẫn phe nổi dậy.

Đây hẳn là cảnh tượng khó quên nhất ở Chiến lang II (2017), bộ phim ăn khách nhất trong lịch sử tại thị trường Trung Quốc, với doanh thu 874 triệu USD, vượt cả Avengers: Endgame ở vị trí thứ ba. Và đây không phải là ngoại lệ, mà đang trở thành xu thế: trong top 5 có đến ba phim thuộc dạng này: Lưu lạc Địa cầu (2019) thứ hai, và Operation Red Sea (2018), được biết đến ở Việt Nam với cái tên tai tiếng “Điệp vụ Biển Đỏ,” thứ năm.

Sau Operation Mekong (2016) và gần đây nhất là Shanghai Fortress (2019), đây dường như là một hướng đi mới nhằm quảng bá Trung Quốc bằng điện ảnh, sau rất nhiều nỗ lực thành cũng có nhưng bất thành lại càng nhiều hơn của quốc gia đông dân nhất thế giới này suốt một thập kỷ qua.

Năm 2008, Thế vận hội Bắc Kinh làm cả thế giới choáng ngợp với lễ khai mạc đầy ấn tượng, báo hiệu sự trỗi dậy mạnh mẽ của một cường quốc sau giai đoạn náu mình chờ thời (năm 2010, Trung Quốc chính thức vượt Nhật trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới). Điều thú vị là tổng đạo diễn của lễ khai mạc là Trương Nghệ Mưu, gương mặt lừng lẫy nhất của điện ảnh Đại lục. Olympics Bắc Kinh không chỉ đánh dấu cuộc “chiêu hồi” của người từng làm thế giới chấn động với những bộ phim đầy phản kháng như To Live, mà còn hé lộ một điều: điện ảnh sẽ là mũi nhọn hàng đầu trong chiến lược sức mạnh mềm của Bắc Kinh. Tuy nhiên, cũng chính Olympics Bắc Kinh, với scandal hát nhép của cô bé Lâm Diệu Khả, đã hé lộ một khía cạnh khác cũng hết sức Trung Hoa: thể diện là trên hết.

Năm 2012, để đảm bảo cơ hội tiếp cận thị trường Đại lục, MGM thay thế nhóm nhân vật phản diện Trung Quốc trong Red Dawn bằng khủng bố Bắc Triều Tiên. Năm 2016, Ancient One (Tilda Swinton) trong Dr. Strange được Marvel chuyển từ người Tây Tạng thành Celtic để phim có thể chiếu ở Đại lục. Đây chỉ là hai ví dụ tiêu biểu cho việc Trung Quốc đang gắng sức vẽ lại diện mạo mình trên màn ảnh toàn cầu ra sao.

Có hai lý do khiến Bắc Kinh muốn là được. Thứ nhất, thị trường Đại lục đạt gần 10 tỉ USD năm 2019, và sẽ vượt Bắc Mỹ trong vài năm tới. Thứ hai, Trung Quốc đã rót hơn 4.5 tỉ USD vào Hollywood (ước tính hơn 40 bom tấn của Hollywood từ 2015 đến nay có góp vốn của Đại lục). Thế nên không có gì khó hiểu nếu mọi studio Mỹ sẵn sàng làm tất cả để làm vui lòng đối tác Trung Hoa, kể cả việc cho một con búp bê chớp mắt cũng không nên như Cảnh Điềm xuất hiện trong hàng loạt bom tấn, từ Great Wall đến Kong: Skull Island hoặc Pacific Rim: Uprising. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Điện ảnh Mỹ-Trung hồi 2013, Chủ tịch Công ty Hợp tác Sản xuất Điện ảnh Trung Quốc Trương Tuân tuyên bố: “Chúng tôi có thị trường khổng lồ, và sẵn sàng chia sẻ,” với điều kiện phim của quý vị phải chú trọng khắc họa văn hóa Trung Hoa và phản ánh “hình ảnh tích cực về Trung Quốc.”

Hệ quả là mấy năm gần đây, trong phim Mỹ đã xuất hiện những chi tiết kín đáo cũng có mà lộ liễu cũng có để tô điểm cho hình ảnh một cường quốc thân thiện và có trách nhiệm. Nhờ Trung Quốc dẫn đầu dự án xây những con tàu Noah hiện đại mà nhân loại thoát nạn diệt vong trong 2012. Sandra Bullock Gravity thoát chết nhờ tới được trạm vũ trụ Trung Quốc. Và trạm nghiên cứu hải dương khổng lồ của The Meg, lẽ dĩ nhiên, do hai cha con nhà khoa học Trung Quốc (Triệu Văn Tuyên và Lý Băng Băng) quản lý.

Khi cảm thấy những chi tiết ấy vẫn là chưa đủ, Đại lục quyết định canh ti với Mỹ để làm một bom tấn “made in China” thực thụ, vẫn với sự tham gia của Trương Nghệ Mưu trên vai trò đạo diễn. Tiếc thay, bất chấp khoản đầu tư khổng lồ (150 triệu USD) hai ngôi sao Hollywood (Matt Damon, Willem Dafoe), bộ phim lấy bối cảnh địa danh Trung Quốc nổi tiếng nhất thế giới, Vạn lý Trường thành, vẫn lỗ thê thảm.

Ngạn ngữ Trung Hoa xưa có câu “Bất đáo Trường Thành phi hảo hán.” Song đến Trường Thành một lần như vậy là quá đủ, và Đại lục đã chuyển hướng ngay khi phát hiện ra một hảo Hán thú vị hơn trong Chiến lang (2015).

Chỉ riêng thế kỷ 20, Trung Quốc đã hai lần bị xâm lược (Bát quốc liên quân năm 1900 và Nhật Bản năm 1931). Hai kỳ “quốc sỉ” ấy là hai vết thương chưa bao giờ khép miệng trong điện ảnh Hoa ngữ, cả Hong Kong lẫn Đại lục. Bởi thế nên Hoắc Nguyên Giáp, Trần Chân hay Diệp Vấn nhất thiết phải đánh bại đối thủ Nhật Bản lẫn Tây dương thì khán giả Trung Hoa mới lấy làm đẹp ý.

Chiến lang đã kế thừa nỗi ám ảnh ấy. Có điều câu chuyện đã thay đổi khá nhiều, phản ánh giấc mơ thầm kín của Trung Quốc đương đại: Lãnh Phong không đại diện cho võ thuật, mà cho Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa; và đối thủ của anh không còn là sĩ quan Nhật mà là đặc nhiệm SEAL. Vừa bóp mũi kẻ thù, phim vừa tranh thủ phô trương sức mạnh của PLA bằng cách giới thiệu nhiều khí tài hiện đại, từ máy bay phản lực đến trực thăng và xe tăng các loại.

Không lâu sau Chiến lang, Operation Mekong xuất hiện, dựa trên câu chuyện có thật về vụ thảm sát 11 công dân Trung Quốc, buộc đặc nhiệm nước này phải đột kích vào Tam giác vàng để “thực thi công đạo.” Dưới bàn tay của Lâm Siêu Hiền, một đạo diễn Hong Kong, đây là một phim hành động không có gì đặc sắc nhưng sạch sẽ và coi được. Đáng nói là câu chuyện cùng thời điểm ra mắt phim (2016) đều rất tương hợp với chủ trương thúc đẩy hợp tác tiểu vùng được Trung Quốc khởi xướng năm 2015 với cơ chế Lan Thương-Mekong.

Song Chiến lang lẫn Operation Mekong chỉ là bản beta. Chiến lang IIOperation Red Sea mới đích thực là màn tuyên truyền lộ liễu của siêu cường mới nổi. Người ta thấy bóng dáng tàu sân bay Liêu Ninh, tàu khu trục Lâm Nghi và chiến đấu cơ Phi Sa J-15 trong những đại cảnh hoành tráng trên vịnh Aden. Dù kẻ thù là cướp biển và phiến quân, nhân vật của Ngô Kinh không bỏ qua cơ hội để giễu cợt Hoa Kỳ. Thông điệp của phim, cũng là lời thoại của nhân vật chính “kẻ nào mạo phạm Trung Quốc, dẫu ở xa đến đâu, nhất định bị tiêu diệt” hẳn là không chỉ nhắm vào vài tên hải tặc nhãi con. Lãnh Phong đặc biệt thân thiện và hết lòng giúp đỡ dân bản xứ, một hình ảnh Trung Quốc luôn muốn quảng bá mỗi khi nhắc tới sự hiện diện của mình trong vô số dự án khai thác tài nguyên của Châu Phi. Và để không mất lòng các đối tác Châu Phi, bối cảnh ở Operation Red Sea là quốc gia giả tưởng Yewaire. Còn nhóm đặc nhiệm ở Operation Mekong thì luôn nhấn mạnh nguyên tắc tôn trọng chủ quyền khi đột kích vào đất Thái. Kết quả của nỗ lực lồng ghép chính trị một cách khiên cưỡng vào điện ảnh là những câu thoại nghe như phát biểu ở diễn đàn đa phương: “Đừng giết người Trung Quốc, Chính phủ của họ là thành viên duy nhất của Hội đồng Bảo an hiện diện ở đây.”

Ám ảnh quá khứ không những thôi thúc điện ảnh Đại lục viết lại hiện tại mà còn sáng tạo cả tương lai. Lưu lạc Địa cầu có thể coi như một phiên bản Hoa ngữ của Armageddon lai The Core và khá nhiều phim tận thế khác. Lần này Ngô Kinh lại góp mặt, món gia vị không thể thiếu có tên “tinh thần dân tộc.” Cách bố cục của poster cũng thể hiện rõ điều đó – Lưu Bồi Cường đứng sau cùng, nhưng cao nhất và kích thước lớn nhất, đổ bóng lên mọi nhân vật khác, như một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng thế giới mà anh đại diện.

Công bằng mà nói, nếu gạt bỏ những ngớ ngẩn của cốt truyện và trong xây dựng tính cách nhân vật, bộ phim rất được về mặt kỹ xảo – một tín hiệu nữa, bên cạnh hiện tượng Huawei, cho thấy Trung Quốc ngày nay đã đã dư sức cạnh tranh với phương tây về công nghệ. Và bộ phim cũng khá phi chính trị, nếu không xét đến vài chi tiết: người bạn thân nhất của Lưu trong vũ trụ, tất nhiên, là một phi công Nga, hầu như không thấy bóng dáng người Mỹ trong cuộc chiến sinh tồn của trái đất, và ngôn ngữ chính thức của Chính phủ Toàn cầu là tiếng Pháp!

Khác biệt đáng kể nhất ở Chiến lang, Biển đỏ, và Địa cầu không phải là doanh thu hàng trăm triệu, mà là ở thị trường nó nhắm đến. Nếu Great Wall được chiếu tại 3000 rạp Bắc Mỹ, ba phim còn lại chỉ chiếu giới hạn ở vỏn vẹn vài chục rạp, mặc dù 13% số rạp phim tại Mỹ đã thuộc sở hữu của tập đoàn Đại Liên Vạn Đạt. Thay vì cố gắng trong tuyệt vọng để chinh phục thị trường nước ngoài, giới làm phim Đại lục giờ chỉ tập trung vào nội địa, một tên hai đích: vừa lãi lớn vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyên truyền mà Bắc Kinh giao phó là thổi bùng ngọn lửa dân tộc trong khán giả Đại lục, đặc biệt là giới trẻ. Thật khó tưởng tượng Rambo của Stallone được đề cử Oscar. Thế mà Chiến lang II, được giới phê bình mệnh danh là Rambo Trung Quốc, đã được Bắc Kinh cử đi tranh giải Phim nước ngoài hay nhất tại Oscar 2018!

Lịch sử đã chứng minh và không chỉ một lần, khi chính quyền bơm liều thuốc tự hào dân tộc vào người dân, một là nhằm siết chặt hàng ngũ sẵn sàng đối đầu với bên ngoài, hai là để xoa dịu những bất ổn nội bộ. Trong trường hợp này, có lẽ cả hai khả năng đều đúng.

Nhưng trong cái đáng lo ấy, lại có một điều đáng mừng khác. Đó là thất bại thảm hại của Pháo đài Thượng Hải ngay ở Đại lục. Nếu Lưu lạc Địa cầu vừa mở ra cánh cửa hy vọng cho phim viễn tưởng ở Trung Quốc, thì Shanghai Fortress đã nhanh chóng đóng sập cánh cửa đó lại. Trong phiên bản lỗi này của Independence Day, người hành tinh lại xâm chiếm trái đất, và Thượng Hải dĩ nhiên là chốt chặn cuối cùng, pháo đài tối hậu của nhân loại. Nhan sắc của Thư Kỳ không cứu vãn được sự kém cỏi toàn diện trong kịch bản, lẫn diễn xuất hạng hai của bình hoa di động tên gọi Lộc Hàm và đồng đội.

Kết cục ấy nói lên một điều: phim dở vẫn là phim dở, và ta không thể nhân danh bất cứ điều gì để biến phim dở thành phim hay, cho dù là ở Trung Quốc. Và Việt Nam cũng vậy thôi.

Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 10/2019


No comments:

Post a Comment