Lãnh Phong lồng lá đại kỳ vào tay và xuống
tấn trên nóc xe. Hà Kiến Quốc cùng Rachel giữ chặt chân anh. Dáng đứng của Lãnh
gợi nhớ biểu tượng Mosfilm thuở nào. Lá cờ bay phần phật khi đoàn xe diễu qua
vùng chiến sự dưới ánh mắt kính cẩn của quân Chính phủ lẫn phe nổi dậy.
Đây hẳn là cảnh tượng khó quên nhất ở Chiến lang II (2017), bộ phim ăn khách
nhất trong lịch sử tại thị trường Trung Quốc, với doanh thu 874 triệu USD, vượt
cả Avengers: Endgame ở vị trí thứ ba.
Và đây không phải là ngoại lệ, mà đang trở thành xu thế: trong top 5 có đến ba
phim thuộc dạng này: Lưu lạc Địa cầu
(2019) thứ hai, và Operation Red Sea (2018),
được biết đến ở Việt Nam với cái tên tai tiếng “Điệp vụ Biển Đỏ,” thứ năm.
Sau Operation
Mekong (2016) và gần đây nhất là Shanghai
Fortress (2019), đây dường như là một hướng đi mới nhằm quảng bá Trung Quốc
bằng điện ảnh, sau rất nhiều nỗ lực thành cũng có nhưng bất thành lại càng nhiều
hơn của quốc gia đông dân nhất thế giới này suốt một thập kỷ qua.
Năm 2008, Thế vận hội Bắc Kinh làm cả
thế giới choáng ngợp với lễ khai mạc đầy ấn tượng, báo hiệu sự trỗi dậy mạnh mẽ
của một cường quốc sau giai đoạn náu mình chờ thời (năm 2010, Trung Quốc chính
thức vượt Nhật trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới). Điều thú vị là tổng đạo
diễn của lễ khai mạc là Trương Nghệ Mưu, gương mặt lừng lẫy nhất của điện ảnh Đại
lục. Olympics Bắc Kinh không chỉ đánh dấu cuộc “chiêu hồi” của người từng làm
thế giới chấn động với những bộ phim đầy phản kháng như To Live, mà còn hé lộ một điều: điện ảnh sẽ là mũi nhọn hàng đầu trong
chiến lược sức mạnh mềm của Bắc Kinh. Tuy nhiên, cũng chính Olympics Bắc Kinh,
với scandal hát nhép của cô bé Lâm Diệu Khả, đã hé lộ một khía cạnh khác cũng hết
sức Trung Hoa: thể diện là trên hết.
Năm 2012, để đảm bảo cơ hội tiếp cận thị
trường Đại lục, MGM thay thế nhóm nhân vật phản diện Trung Quốc trong Red Dawn bằng khủng bố Bắc Triều Tiên.
Năm 2016, Ancient One (Tilda Swinton) trong Dr.
Strange được Marvel chuyển từ người Tây Tạng thành Celtic để phim có thể chiếu
ở Đại lục. Đây chỉ là hai ví dụ tiêu biểu cho việc Trung Quốc đang gắng sức vẽ
lại diện mạo mình trên màn ảnh toàn cầu ra sao.
Có hai lý do khiến Bắc Kinh muốn là được.
Thứ nhất, thị trường Đại lục đạt gần 10 tỉ USD năm 2019, và sẽ vượt Bắc Mỹ
trong vài năm tới. Thứ hai, Trung Quốc đã rót hơn 4.5 tỉ USD vào Hollywood (ước tính hơn 40 bom tấn của Hollywood từ
2015 đến nay có góp vốn của Đại lục). Thế nên không có gì khó hiểu nếu mọi studio Mỹ sẵn sàng làm tất cả để làm
vui lòng đối tác Trung Hoa, kể cả việc cho một con búp bê chớp mắt cũng không
nên như Cảnh Điềm xuất hiện trong hàng loạt bom tấn, từ Great Wall đến Kong: Skull
Island hoặc Pacific Rim: Uprising.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh
Điện ảnh Mỹ-Trung hồi 2013, Chủ tịch
Công ty Hợp tác Sản xuất Điện ảnh Trung Quốc
Trương Tuân tuyên bố: “Chúng tôi có thị trường khổng lồ, và sẵn sàng chia sẻ nó,” với điều kiện
phim của quý vị phải “chú trọng khắc họa văn hóa Trung Hoa” và phản ánh
“hình
ảnh tích cực về Trung Quốc.”
Hệ quả là mấy năm
gần đây, trong phim Mỹ đã xuất hiện những
chi tiết kín đáo cũng có mà lộ liễu cũng có để
tô điểm cho hình ảnh
một cường quốc thân thiện và có trách nhiệm. Nhờ Trung Quốc dẫn đầu dự án xây những con tàu Noah hiện
đại mà nhân loại thoát nạn diệt vong trong 2012.
Sandra Bullock ở Gravity thoát chết nhờ tới
được trạm vũ trụ
Trung Quốc. Và trạm nghiên cứu hải dương khổng lồ của The Meg, lẽ dĩ nhiên, do hai cha
con nhà khoa học Trung Quốc (Triệu Văn Tuyên và Lý Băng Băng) quản lý.
Khi cảm thấy những
chi tiết ấy vẫn là chưa đủ, Đại lục quyết định canh ti với Mỹ để làm một bom tấn
“made in China” thực thụ, vẫn với sự tham
gia của Trương Nghệ Mưu trên vai trò
đạo diễn. Tiếc thay, bất chấp
khoản đầu tư khổng lồ
(150 triệu USD) và hai ngôi sao
Hollywood (Matt Damon, Willem
Dafoe), bộ phim lấy bối cảnh địa danh Trung
Quốc nổi
tiếng nhất thế giới, Vạn lý Trường thành, vẫn lỗ
thê thảm.
Ngạn ngữ Trung Hoa
xưa có câu “Bất đáo
Trường Thành phi hảo hán.” Song đến
Trường Thành một lần
như vậy là quá đủ, và Đại lục đã
chuyển hướng ngay khi phát hiện ra một hảo Hán thú vị hơn trong
Chiến lang (2015).
Chỉ riêng thế kỷ 20, Trung Quốc đã hai
lần bị xâm lược (Bát quốc liên quân năm 1900 và Nhật Bản năm 1931). Hai kỳ “quốc sỉ” ấy là hai vết thương chưa bao giờ khép
miệng trong điện ảnh Hoa ngữ, cả Hong Kong lẫn Đại lục. Bởi thế nên Hoắc Nguyên
Giáp, Trần Chân hay Diệp Vấn nhất thiết phải đánh bại đối thủ Nhật Bản lẫn Tây dương
thì khán giả Trung Hoa mới lấy làm đẹp ý.
Chiến
lang đã kế thừa nỗi ám ảnh ấy. Có điều câu
chuyện đã thay đổi khá nhiều, phản ánh giấc mơ thầm kín của Trung Quốc đương đại:
Lãnh Phong không đại diện cho võ thuật, mà cho Quân giải phóng Nhân dân Trung
Hoa; và đối thủ của anh không còn là sĩ quan Nhật mà là đặc nhiệm SEAL. Vừa bóp
mũi kẻ thù, phim vừa tranh thủ phô trương sức mạnh của PLA bằng cách giới thiệu
nhiều khí tài hiện đại, từ máy bay phản lực đến trực thăng và xe tăng các loại.
Không lâu sau Chiến lang, Operation Mekong xuất hiện, dựa trên câu chuyện có
thật về vụ thảm sát 11 công dân Trung Quốc, buộc đặc nhiệm nước này phải đột
kích vào Tam giác vàng để “thực thi công đạo.” Dưới bàn tay của Lâm Siêu Hiền,
một đạo diễn Hong Kong, đây là một phim hành động không có gì đặc sắc nhưng sạch
sẽ và coi được. Đáng nói là câu chuyện cùng thời điểm ra mắt phim (2016) đều rất
tương hợp với chủ trương thúc đẩy hợp tác tiểu vùng được Trung Quốc khởi xướng
năm 2015 với cơ chế Lan Thương-Mekong.
Song Chiến lang lẫn Operation
Mekong chỉ là bản beta. Chiến lang II
và Operation Red Sea mới đích thực là
màn tuyên truyền lộ liễu của siêu cường mới nổi. Người ta thấy bóng dáng tàu
sân bay Liêu Ninh, tàu khu trục Lâm Nghi và chiến đấu cơ Phi Sa J-15 trong những
đại cảnh hoành tráng trên vịnh Aden. Dù kẻ thù là cướp biển và phiến quân, nhân
vật của Ngô Kinh không bỏ qua cơ hội để giễu cợt Hoa Kỳ. Thông điệp của phim, cũng
là lời thoại của nhân vật chính “kẻ nào mạo phạm Trung Quốc, dẫu ở xa đến đâu,
nhất định bị tiêu diệt” hẳn là không chỉ nhắm vào vài tên hải tặc nhãi con.
Lãnh Phong đặc biệt thân thiện và hết lòng giúp đỡ dân bản xứ, một hình ảnh
Trung Quốc luôn muốn quảng bá mỗi khi nhắc tới sự hiện diện của mình trong vô số
dự án khai thác tài nguyên của Châu Phi. Và để không mất lòng các đối tác Châu
Phi, bối cảnh ở Operation Red Sea là quốc
gia giả tưởng Yewaire. Còn nhóm đặc nhiệm ở Operation
Mekong thì luôn nhấn mạnh nguyên tắc tôn trọng chủ quyền khi đột kích vào đất
Thái. Kết quả của nỗ lực lồng ghép chính trị một cách khiên cưỡng vào điện ảnh
là những câu thoại nghe như phát biểu ở diễn đàn đa phương: “Đừng giết người
Trung Quốc, Chính phủ của họ là thành viên duy nhất của Hội đồng Bảo an hiện diện
ở đây.”
Ám ảnh quá khứ không những thôi thúc điện
ảnh Đại lục viết lại hiện tại mà còn sáng tạo cả tương lai. Lưu lạc Địa cầu có thể coi như một phiên
bản Hoa ngữ của Armageddon lai The Core và khá nhiều phim tận thế khác.
Lần này Ngô Kinh lại góp mặt, món gia vị không thể thiếu có tên “tinh thần dân
tộc.” Cách bố cục của poster cũng thể hiện rõ điều đó – Lưu Bồi Cường đứng sau
cùng, nhưng cao nhất và kích thước lớn nhất, đổ bóng lên mọi nhân vật khác, như
một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng thế giới mà anh đại diện.
Công bằng mà nói, nếu gạt bỏ những ngớ
ngẩn của cốt truyện và trong xây dựng tính cách nhân vật, bộ phim rất được về mặt
kỹ xảo – một tín hiệu nữa, bên cạnh hiện tượng Huawei, cho thấy Trung Quốc ngày
nay đã đã dư sức cạnh tranh với phương tây về công nghệ. Và bộ phim cũng khá
phi chính trị, nếu không xét đến vài chi tiết: người bạn thân nhất của Lưu
trong vũ trụ, tất nhiên, là một phi công Nga, hầu như không thấy bóng dáng người
Mỹ trong cuộc chiến sinh tồn của trái đất, và ngôn ngữ chính thức của Chính phủ
Toàn cầu là tiếng Pháp!
Khác biệt đáng kể nhất ở Chiến lang, Biển đỏ, và Địa cầu không
phải là doanh thu hàng trăm triệu, mà là ở thị trường nó nhắm đến. Nếu Great Wall được chiếu tại 3000 rạp Bắc Mỹ,
ba phim còn lại chỉ chiếu giới hạn ở vỏn vẹn vài chục rạp, mặc dù 13% số rạp
phim tại Mỹ đã thuộc sở hữu của tập đoàn Đại Liên Vạn Đạt. Thay vì cố gắng
trong tuyệt vọng để chinh phục thị trường nước ngoài, giới làm phim Đại lục giờ
chỉ tập trung vào nội địa, một tên hai đích: vừa lãi lớn vừa hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ tuyên truyền mà Bắc Kinh giao phó là thổi bùng ngọn lửa dân tộc trong
khán giả Đại lục, đặc biệt là giới trẻ. Thật khó tưởng tượng Rambo của Stallone được đề cử Oscar. Thế
mà Chiến lang II, được giới phê bình mệnh
danh là Rambo Trung Quốc, đã được Bắc Kinh cử đi tranh giải Phim nước ngoài hay
nhất tại Oscar 2018!
Lịch sử đã chứng minh và không chỉ một
lần, khi chính quyền bơm liều thuốc tự hào dân tộc vào người dân, một là nhằm
siết chặt hàng ngũ sẵn sàng đối đầu với bên ngoài, hai là để xoa dịu những bất ổn
nội bộ. Trong trường hợp này, có lẽ cả hai khả năng đều đúng.
Nhưng trong cái đáng lo ấy, lại có một
điều đáng mừng khác. Đó là thất bại thảm hại của Pháo đài Thượng Hải ngay ở Đại lục. Nếu Lưu lạc Địa cầu vừa mở ra cánh cửa hy vọng cho phim viễn tưởng ở
Trung Quốc, thì Shanghai Fortress đã
nhanh chóng đóng sập cánh cửa đó lại. Trong phiên bản lỗi này của Independence Day, người hành tinh lại
xâm chiếm trái đất, và Thượng Hải dĩ nhiên là chốt chặn cuối cùng, pháo đài tối
hậu của nhân loại. Nhan sắc của Thư Kỳ không cứu vãn được sự kém cỏi toàn diện trong
kịch bản, lẫn diễn xuất hạng hai của bình hoa di động tên gọi Lộc Hàm và đồng đội.
Kết cục ấy nói lên một điều: phim dở vẫn
là phim dở, và ta không thể nhân danh bất cứ điều gì để biến phim dở thành phim
hay, cho dù là ở Trung Quốc. Và Việt Nam cũng vậy thôi.
Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần tháng 10/2019
No comments:
Post a Comment